Tiếng Việt | English

21/03/2018 - 09:59

Người Tiểu đoàn phó trong Tổng tiến công Xuân Mậu Thân

Ông trải qua 99 ngày đêm sinh tử ở nội thành Sài Gòn trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Tiểu đoàn của ông đánh vào cánh Nam Sài Gòn, sau 99 ngày đêm, quân số từ 400 chỉ còn khoảng 50 người, ông bị thương, mất 1 chân. Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, ông nhiều lần trở lại chiến trường xưa, tìm hài cốt đồng đội.

Ông Ngô Văn Phê nói chuyện chuyên đề về cuộc Tổng tiến công Mậu thân 1968

Ra trận chiều 30 tết

Trước mặt tôi là một cựu binh từng chinh chiến trên trận mạc. Thật khó hình dung 10 lần ông bị thương và lần cuối, ông bị mất một chân trong trận Mậu Thân 1968, phải rời xa binh nghiệp. Ông sinh ra ở Cần Đước, học trung học ở Sài Gòn rồi về quê tham gia cách mạng. Ông tên Ngô Văn Phê - nguyên Chánh Thanh tra tỉnh Long An, nguyên Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh.

Dịp Tết Nguyên đán vừa qua, ông tất bật với những cuộc họp mặt, nói chuyện về cuộc Tổng tiến công và nổi dây Xuân Mậu Thân 1968, không chỉ ở Long An mà cả ở TP.HCM. Ông là người từng dẫn một cánh quân áp sát Sài Gòn, có mặt vào thời khắc nổ súng tiến công, trải qua 99 ngày đêm sinh tử giữa “chảo lửa”. Trước khi rút khỏi Sài Gòn, kết thúc chiến dịch, ông bị thương, mất một chân. Trong trận đó, nhiều đồng đội của ông nằm lại dưới chân cầu Mật, dạ cầu Sập,...

Tháo cái chân giả cho nhẹ nhàng ngồi tiếp khách, ông Phê chậm rãi kể: “Trong cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, Long An thành lập 2 phân khu (Phân khu 2 và Phân khu 3), tôi là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Phú Lợi 2, thuộc Phân khu 3 (cùng với Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 5 Nhà Bè) có nhiệm vụ tiến công từ cánh Nam Sài Gòn, đánh vào khu vực quận 4, quận 7, quận 8 và huyện Nhà Bè. Tiểu đoàn Phú Lợi 2 được thành lập từ lực lượng của một đơn vị quân giải phóng từng chiến đấu bên nước bạn Lào và chiến trường miền Đông - Tây Nguyên. Tôi lúc đó đang là cán bộ Tiểu đoàn 1 (thuộc Tỉnh đội Long An), do có thời gian dài sống và rành đường phố Sài Gòn nên được tăng cường về làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Phú Lợi 2”.

Vào những ngày cận Tết Mậu Thân, Tiểu đoàn Phú Lợi 2 về ém quân tại xã Long Cang, huyện Cần Đước. Trưa 30 tết, các ông được lệnh hành quân cấp tốc về Sài Gòn. Quân giải phóng đi tới đâu cũng được bà con sống 2 bên đường tiếp lương thực... Lực lượng dân công tiếp lương, tải đạn nườm nượp theo sau đoàn quân giải phóng. Vượt qua quãng đường gần 30km, đến tối, tiểu đoàn áp sát Sài Gòn, thuộc khu vực quận 8.

Giao thừa, Đài Tiếng nói Việt Nam phát bài thơ chúc tết của Bác Hồ: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng trận tin vui khắp nước nhà/ Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/ Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”. Đối với ông Phê và các đồng đội, lời kêu gọi “Tiến lên!” trong thơ Bác chính là hiệu lệnh mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Hơn 400 quân Tiểu đoàn Phú Lợi 2 phối hợp Tiểu đoàn 1 đồng loạt nổ súng đánh vào các khu vực: Cầu Sập, Bến Đá, Kiều Công Mười, Bình Đông, cầu Nhị Thiên Đường,...

Cận chiến trong nội thành

Tiếng súng tiến công của các chiến sĩ Tiểu đoàn Phú Lợi 2 hòa lẫn với tiếng pháo đón giao thừa. Nhờ yếu tố táo bạo, bất ngờ, tiểu đoàn của ông Phê nhanh chóng làm chủ trận địa, gây nhiều tổn thất cho đối phương. Đánh vào Sài Gòn, Tiểu đoàn Phú Lợi 2 được trang bị súng trường (AK), tiểu liên, B40 chống tăng, không có súng cao xạ chống máy bay. Vì vậy, khi đối phương phản công bằng xe tăng, các chiến sĩ chống đỡ được nhưng khi máy bay Mỹ đến ném bom, bắn rocket thì các ông đành “chịu trận”.

Chiến trận diễn ra từng ngày, từng giờ giữa lòng thành phố, khoảng cách giữa đôi bên thường rất hẹp, chỉ vài chục mét, cách một dãy nhà, một con đường, con rạch,... Bộ đội quen chiến đấu trong rừng núi, giờ đánh trong thành phố không quen, gặp nhiều bỡ ngỡ. Ông len qua từng tòa nhà, luồn lách dưới cống thoát nước, trèo lên nóc sân thượng tìm vị trí cao nhất... để quan sát trận địa, vẽ sơ đồ, nắm bắt lực lượng đối phương, đề ra cho tiểu đoàn phương án bố trí lực lượng và cách đánh hiệu quả nhất.

Tiểu đoàn bắt đầu có nhiều tổn thất khi đối phương phản công bằng xe tăng và máy bay; xe tăng bắn sập các tòa nhà nơi tiểu đoàn ẩn náu, còn máy bay trực thăng bắn rocket suốt ngày vào đội hình của tiểu đoàn. Xe tăng thì có B40 để đối phó, nhưng máy bay thì đành chịu, mặc cho chúng muốn bắn bao nhiêu thì bắn, quân giải phóng ẩn náu trong các tòa nhà để chống đạn.

Ông  Ngô Văn Phê kể chuyện Tổng tiến công Xuân Mậu Thân

Đợt 1 của cuộc Tổng tiến công kết thúc sau 2 tháng giằng co, quân số của Tiểu đoàn Phú Lợi 2 còn khoảng 300 người. Đúng ra, tiểu đoàn phải rút ra ngoại thành để củng cố lực lượng trước khi tiến công đợt 2 nhưng vì bị đối phương truy kích bằng không quân nên chỉ rút ra đến khu vực huyện Bình Chánh thì dừng lại, còn ông Phê cùng một đại đội ém quân lại ở quận 8, trong các nhà dân ở khu vực Lò heo Chánh Hưng.

Đợt 2 cuộc Tổng tiến công càng ác liệt, nhà cửa cháy ngùn ngụt vì bom đạn, hầu hết dân trong khu vực đều di tản đi nơi khác. Bị cắt đứt chi viện của hậu phương, lương thực, thuốc men, súng đạn cũng cạn dần. Nhiều người dân Sài Gòn không ngại bom đạn, bắt bớ của cảnh sát, tìm cách chuyển gạo, bánh tét, nhu yếu phẩm,... vào khu vực Tiểu đoàn Phú Lợi 2 đang ẩn náu. Về sau, chính quyền Sài Gòn cách ly gắt gao hơn, khó có người dân nào lọt được vào vùng “tử địa”.

Ông Phê kể, có lúc, cạn thức ăn, bất ngờ, một buổi chiều, các ông thấy ai đó cố ý lùa cả bầy vịt cho chạy về hướng các chiến sĩ. Thì ra, do bị cảnh sát cấm không được lân la đến khu vực cách ly, người dân nghĩ ra cách lùa cả bầy vịt vào cho các chiến sĩ. Nhờ thịt vịt mà các ông có sức để tiếp tục chiến đấu.

Khó có thể kể hết mức độ khốc liệt trong đợt 2 cuộc Tổng tiến công. Những cuộc quần thảo cận chiến giữa quân giải phóng, quân đội Mỹ và Sài Gòn diễn ra quanh cầu Mật, cầu Sập, Đồng Diều,... Vẫn là chiến thuật ẩn náu trong nhà dân để đánh địch nhưng giờ đây, Tiểu đoàn Phú Lợi 2 gặp khó khăn khi không quân Mỹ dùng bom xăng thiêu rụi dãy nhà này đến dãy nhà khác, cả khu vực ngùn ngụt khói lửa, nơi ẩn náu hẹp dần. Rồi đối phương dùng trực thăng thả chất độc hóa học, các chiến sĩ phải dùng khăn tẩm nước tiểu phủ lên mặt để chống chọi,...

Từng đoàn xe tăng của đối phương sang được cầu Chữ Y, áp sát trận địa. Dãy nhà nơi Tiểu đoàn Phú Lợi 2 ẩn náu bị bom xăng thiêu rụi, trong khi xe tăng Mỹ áp sát dãy nhà gần đó nã đạn, gây thiệt hại lớn cho quân giải phóng. Đồng chí Tiểu đoàn trưởng hy sinh, ông Phê thay thế chỉ huy trận địa, cho chôn cất liệt sĩ ngay dưới chân cầu Mật, ông tìm chỗ ẩn náu cho các chiến sĩ tiếp tục chiến đấu. Một chiếc xe tăng nấp ngay đầu đường lia đạn về phía ông. Thấy cái chân phải tê buốt, ông nhảy cò cò vào dãy nhà chưa bị cháy tránh đạn, tiếp tục chỉ huy trận đánh. Máu ra nhiều, ông mệt dần rồi lịm đi, được đồng đội chuyển ra ngoài, đưa về Trạm Quân y tiền phương ở Cần Giuộc. Ông bị cắt mất một chân vì nhiễm trùng quá nặng. Tiểu đoàn Phú Lợi 2 không còn chỉ huy, lực lượng quá mỏng cũng được lệnh rút khỏi thành phố. Ông Phê nhớ rất rõ, đó là ngày 08/5/1968.

Trở lại chiến trường xưa

Sau khi điều trị lành vết thương, cuộc Tổng tiến công cũng kết thúc, ông Phê được điều về Hậu cần Phân khu 3. Năm 1972, ông vượt Trường Sơn ra Bắc trị bệnh và tiếp tục đi học. Ông Phê bồi hồi nhớ lại: “Ngày ấy, quân số chỉ còn khoảng 50 người, Tiểu đoàn Phú Lợi 2 giải tán, số quân còn lại nhập vào đơn vị chiến đấu khác, các chiến sĩ tiếp tục chiến đấu và hy sinh, cho đến ngày miền Nam giải phóng chỉ còn ít người”.

Sau ngày miền Nam giải phóng, ông Phê từ miền Bắc trở về quê hương công tác trong ngành Thanh tra đến năm 2000 về hưu. Trở về quê hương sau ngày giải phóng, ông cùng với ngành chức năng quận 8 truy tìm, quy tập được nhiều hài cốt đồng đội, có lần quy tập được gần 20 hài cốt đồng đội nằm dưới chân cầu Sập và xây dựng bia tưởng niệm tại đó. Lần tìm được 15 hài cốt đồng đội ở khu vực cầu Mật, ông bồi hồi, lặng lẽ, đây cũng là nơi ông bỏ lại một phần máu thịt của mình.

Bây giờ, thi thoảng ông về họp mặt ở quận 8, TP.HCM vào những dịp kỷ niệm cuộc Tổng tiến công và nổi dây Xuân Mậu Thân 1968; cũng có khi một mình ông tìm lại chiến trường xưa để nhớ về những tháng ngày sinh tử bên cạnh các đồng đội. Ngày ấy, các ông chiến đấu và hy sinh anh dũng. Các ông viết nên một trong những trang sử oai hùng của lịch sử./.

Nguyễn Phấn Đấu

Chia sẻ bài viết