Tiếng Việt | English

23/09/2017 - 18:27

Soạn giả Minh Khoa - Một đời binh nghiệp và văn nghiệp

Nhà văn - Đại tá Minh Khoa là nghệ sĩ - chiến sĩ cách mạng lão thành. Ông lớn lên và được trui rèn trong môi trường quân đội, có lẽ vì thế mà các tác phẩm của ông đều hừng hực khí thế anh hùng ca, với nhân vật đầy tính sử thi dân tộc. Nhà văn - Đại tá Minh Khoa nay gần kề 90 tuổi, sức khỏe suy giảm nhiều nhưng ông vẫn trăn trở với những tác phẩm còn dang dở.

Khởi nghiệp trên đất Bắc, nở rộ lúc về Nam

Nhà văn - Đại tá Minh Khoa tên thật là Đặng Quang Hổ, sinh tại Sài Gòn (1928), là cựu học sinh và cũng là Đoàn phó Đoàn “S.E.T” Trường Trung học Huỳnh Khương Ninh, quận 1, Sài Gòn (1943), thuộc cán bộ tiền khởi nghĩa. Từ đây, ông hoạt động bí mật cho Việt Minh với vỏ bọc là thầy giáo (bằng Thành chung).

Cuộc đời làm văn nghệ của ngài Đại tá có lẽ khởi đầu ở đất Bắc và kết quả chín rộ thì khi trở về Nam, đó cũng là dấu ấn của cuộc đời sáng tác văn học của ông. Ðến thời điểm mà kinh nghiệm trong quân ngũ lẫn cảm xúc chín muồi, ông mới bắt đầu sáng tác. Tác phẩm đầu tay của ông là truyện ngắn Kéo cày đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội - 1958. Trước đó, ông được tin vui từ trong Nam, là cô Ngọc Kha (vợ ông) sinh ra người con trai và đặt tên là Minh Khoa; nên khi sáng tác truyện ngắn Kéo cày, ông lấy bút danh Minh Khoa.

Năm 1960, ông làm Chính trị viên Tiểu đoàn Pháo binh 105, E4, F330; năm 1961, ông được lệnh trở về Nam công tác tại Cục Chính trị Quân giải phóng miền Nam cho đến ngày giải phóng (1975). Trong suốt giai đoạn này, tác giả Minh Khoa vừa cầm súng chiến đấu, vừa cầm viết sáng tác.

Có lẽ, trong giai đoạn này, bút pháp của soạn giả Minh Khoa nở rộ về thể loại văn xuôi, mà chủ đề - đề tài xuyên suốt của ông là “chủ nghĩa anh hùng cách mạng”, với những nhân vật anh hùng đầy tính sử thi của dân tộc. Những tác phẩm tiêu biểu: Cho máu chảy vào Tim (1962), Lá thư chưa kịp gởi, Người lái xe tòng quân (1963), Không rời đồng đội (truyện ngắn, giải Nhất Văn nghệ miền Đông - 1964), Một viên đạn một quân thù (1965), Chiến công đồi Khánh, Con người thép trong lửa đạn (1967), Làn sóng điện kỳ diệu, Người chị xóm nhỏ, Cô gái quân nhu vùng hậu địch, Ông lão lái đò trên sông Sài Gòn, Người thợ rừng, Ông lão trồng mai (1968), Chú bé Cả Xên (1972), Quật khởi (1973),... là những truyện ngắn, truyện ký, truyện dài đều được đăng trên Tạp chí VN QGPMN và in thành sách phát hành.

Sau ngày giải phóng miền Nam, ông làm Trưởng phòng Tuyên huấn Quân khu 7 (1976-1988) và vẫn sáng tác đều tay. Về văn xuôi, nhà văn Minh Khoa tiếp tục cho ra đời những tác phẩm: Ông lão chăn dê và chàng trinh sát (1981, NXB VNTP, Hội Nhà văn VN), Trên lưng ngựa (tập 1 - 1985, tập 2 - 1986, tập 3 - 1994, NXB Trẻ), Một tiếng đờn kìm (1997, NXB Hội Nhà văn VN), Một công binh xưởng bỏ túi (2001, NXB QĐND), Ông họa đồ Lanh (2003, NXB Trẻ), Những người hào kiệt (2005, NXBVN TP.HCM),...

Ông khắc họa những nhân vật hào hùng từ người thật, việc thật thành những hình tượng hết sức sống động, làm lay động lòng người. Như anh hùng Huỳnh Văn Đảnh ở Long An, chỉ có 20 viên đạn mà chặn đứng một tiểu đoàn địch (Một viên đạn một quân thù); một chú bé mồ côi trở thành dũng sĩ diệt Mỹ (Chú bé Cả Xên), anh hùng Nguyễn Văn Quang (Quật khởi), anh hùng Nguyễn Văn Một (Trên lưng ngựa), ông Bảy Đờn vì bảo vệ một cán bộ cách mạng mà bị giặc móc đi hai con mắt (Một tiếng đờn Kìm),... Văn phong của ông không cầu kỳ, trau chuốt mà rất mộc mạc nhưng cũng rất sâu lắng; ngôn từ của nhân vật đậm đặc tính cách khẩu ngữ trong phương ngữ Nam bộ; lối hành văn tự sự, kể hơn là tả, bằng những câu chuyện thật đầy cảm xúc...

Tác phẩm sân khấu nhiều dấu ấn

Soạn giả Minh Khoa viết kịch bản sân khấu không nhiều lắm, nhưng từng tác phẩm có sức sống bền lâu và có sức thuyết phục công chúng mạnh mẽ. Mỗi kịch bản sân khấu của ông thường in lại nhiều dấu ấn trong nền nghệ thuật dân tộc, bằng khá nhiều loại thể: Kịch nói, cải lương, phim truyện, với hình thức sàn diễn, phát thanh, truyền hình hoặc một kịch bản cùng nhiều đơn vị dàn dựng,...

Ông viết kịch bản bắt đầu từ năm 1964, với tác phẩm đầu tay là Hai cha con chú tự vệ (kịch nói), được giải Nhất Văn nghệ miền Đông, kịch bản văn học - 1965; kế đó là Người con gái TP.Bác Hồ (kịch nói) dựng cho Văn công QGPMN - 1968 và Đài Phát thanh Giải phóng thu, phát sóng - 1969; Người con gái làng Mỹ Hạnh (kịch nói - 1974), in thành sách và dựng cho Văn công QGPMN - 1975,...

Đặc biệt, là tác phẩm Người ven đô - một trong những kịch bản sân khấu nổi tiếng, để đời nhất, ông viết rất công phu, gần 2 năm mới xong (1973-1974), bản thảo chồng lên cao đến hơn một mét. Sau kịch bản Người con gái làng Mỹ HạnhNgươi ven đô, ông thành công tiếp với các tác phẩm: Bà mẹ giao liên, Mùa mai nở, Hồ Huấn Nghiệp, Võ Văn Tần, Bài ca Hắc Hải,... Mỗi tác phẩm là một cuộc hành trình ông đi tìm nhân vật không đơn giản; có nhân vật, ông phải đi lại nhiều lần, nơi mà nhân vật hoạt động lúc còn sống; có nhân vật, ông phải đến Bộ Ngoại giao, cơ quan Nhà nước Trung ương để tìm;...

"Một Minh Khoa - Một đề tài"

Nhà văn - Đại tá Minh Khoa là một trong những cây viết tiêu biểu cho “chủ nghĩa anh hùng cách mạng”, tác phẩm của ông mang đậm tính anh hùng ca, với những nhân vật sống động đầy tính sử thi dân tộc. Cái mà ông cho là “món nợ” với lịch sử dân tộc cần phải viết để lại cho thế hệ sau soi rọi, nếu không, ông sẽ có lỗi với lịch sử và nhân dân; đó là những chiến sĩ anh hùng, dũng sĩ, những người dân kiên trung với cách mạng, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Là những câu chuyện trong chiến tranh chống Mỹ, về người thật, việc thật mà Đại tá từng chứng kiến hay nghe qua,...

Nhà văn Minh Khoa không những thành công ở lĩnh vực văn xuôi với hàng chục tác phẩm về anh hùng ca, mà ở lĩnh vực sân khấu, ông còn là một kịch tác gia lão thành với những kịch bản để đời. Cũng có lẽ, do đặc thù của nghệ thuật sân khấu mà những nhân vật điển hình của ông trở thành hình tượng ngự trị trong lòng công chúng khó phai.

Đó là Nguyễn Thị Hạnh - cô du kích anh hùng của làng Mỹ Hạnh, Đức Hòa (Long An), trong Người không cô đơn; Tám Khỏe, Bảy Đờn, Sáu Nghĩa trong Người ven đô; Hồ Huấn Nghiệp - một sĩ phu tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước thời Pháp thuộc, trong Hồ Huấn Nghiệp, Võ Văn Tần - Bí thư Xứ ủy Nam kỳ, người con ưu tú của Đảng, của dân tộc anh dũng hy sinh trong thời kỳ chống Pháp, trong Võ Văn Tần một dấu son; Hai Thắng (Bác Tôn) - vị lãnh tụ lỗi lạc của cách mạng Việt Nam, tiêu biểu cho giai cấp công nhân Việt Nam trong Bài ca Hắc Hải;...

Về văn xuôi, ngoài những giải thưởng trước đây, năm 2001, ông còn nhận Giải thưởng Nguyễn Thông (về văn học - nghệ thuật) của tỉnh Long An, tặng cho 3 tác phẩm: Người không cô đơn và Võ Văn Tần một dấu son (kịch bản sân khấu), Một viên đạn một quân thù (truyện ký). Năm 2007, kịch tác gia Minh Khoa vinh dự được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật cho 3 kịch bản sân khấu: Người ven đô, Võ Văn Tần và Hồ Huấn Nghiệp. Niềm tự hào và vinh dự đó, ông không lấy cho riêng mình mà tâm niệm: “Tôi mong được san sẻ niềm tự hào và biết ơn những người hào kiệt - quyết tử vì Tổ quốc quyết sinh”.

Năm 1989, nhà văn - Đại tá Minh Khoa chuyển ngành, ông về làm Phó Tổng Thư ký Hội Sân khấu TP.HCM kiêm Tổng Biên tập Báo Sân khấu TP.HCM (Tổng Biên tập đầu tiên). Ông được bầu vào Thường trực Ban Thư ký và Ủy viên Hội đồng Nghệ thuật Hội Sân khấu TP.HCM khóa I, II, III; Ủy viên BCH Hội NSSKVN khóa II. Vì tuổi cao, sức yếu, sau đó, ông từ nhiệm các chức vụ, về nhà dưỡng bệnh (năm 1995)./.

Đỗ Dũng

Chia sẻ bài viết