Tiếng Việt | English

29/04/2017 - 16:36

Kỷ niệm 42 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2017):

Trận đánh cuối cùng

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là trận đánh cuối cùng chấm dứt 30 năm trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của quân và dân ta.


Giải phóng thị xã Tân An. Ảnh: Tư liệu

Cùng với nhiều trận đánh mở màn cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn Gia Định, trận đánh ở Quốc lộ 4, cầu Tân An, tỉnh Long An của Đại đội 2 Tiểu đoàn 24 Sư đoàn 5 Phòng không không quân không chỉ là trận đánh bất tử, chặt đứt sự chi viện của 3 sư đoàn địch, khẳng định sự thất bại nhục nhã của đế quốc Mỹ, sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn do Tổng thống bù nhìn Dương Văn Minh cầm đầu, mà còn khẳng định ý chí kiên cường anh dũng của những người lính Cụ Hồ.

Hồi ức thời chiến trận

42 năm sau ngày đất nước thống nhất - một quãng thời gian khá dài để người ta quên nhiều thứ. Song, đối với Đại úy Dương Đức Duy - cựu binh vào sinh ra tử thời khói chiến trận thì chưa bao giờ quên những ngày chiến đấu trên chiến trường Long An.

Ông bảo: “Đó là quãng thời gian đẹp nhất của tôi. Tôi sống được đến bây giờ, nhiều đồng đội đã nằm lại”. Ông Duy bùi ngùi nhắc lại hồi ức thời chiến trận.


Đại đội trưởng Dương Đức Duy “thời binh đao hoa lửa”

Sáng 07/4/1975, Đại đội 2 Tiểu đoàn 24 Sư đoàn 5 Phòng không không quân được giao nhiệm vụ: Vận dụng các hình thức chiến thuật, phục kích, tập kích, ghìm chân 3 sư đoàn 7, 9, 21 của địch, chặn đường, không cho chúng hành quân lên Sài Gòn chi viện lực lượng.

Sau khi nhận nhiệm vụ, đêm 07/4/1975, đại đội trưởng Dương Đức Duy chỉ huy bộ đội vượt sông Vàm Cỏ bằng thuyền của dân, hành quân khẩn trương chiếm lĩnh trận địa.

Sông Vàm Cỏ không rộng lắm, nhưng đại đội phải vượt hơn 6 giờ đồng hồ mới sang bờ bên kia, vừa bơi vừa giữ bí mật và tránh bom đạn địch. Vào vị trí bí mật, Duy nhanh chóng giao nhiệm vụ cho các trung đội và triển khai đào hầm hào công sự, sẵn sàng chiến đấu ngay trên cánh đồng lúa đã gặt của dân.

Đúng như dự đoán, sớm ngày 08/4/1975, một đoàn xe tăng và bộ binh địch gầm rú như xé nát bầu trời ùn ùn tiến từ đầu cầu Tân An đến Cầu Voi, vừa đi chúng vừa bắn pháo dẹp đường. Chúng không hề biết ở địa hình trống trải, dưới đống rạ khô hai bên Quốc lộ 4 là những ụ súng cao xạ, những tiểu đội B40, 41, trung đội DKZ của ta sẵn sàng nổ súng.

Chờ cho chúng “lọt lõng”, đại đội trưởng Duy hô: “Nổ súng. Tất cả nổ súng tiêu diệt địch”. Ắt thì hàng chục ụ súng máy cao xạ 12,7 ly, đại liên, cối 82B10, cối 60, DKZ, súng chống tăng B41 bắn xối xả vào 3 xe tăng và toàn bộ đội hình địch.

Bị bất ngờ, chúng rút chạy ngược lại về cầu Tân An rồi gọi máy bay đánh phá vào đội hình chiến đấu của ta. Trước tình hình ấy, Duy đã chỉ huy các tiểu đội súng cao xạ tiêu diệt máy bay trong tầm bắn hiệu quả, phát huy tác dụng bắn thẳng, các khẩu đội 82B10, B40, B41 tiêu diệt xe tăng, xe bọc thép địch.

Quân ta bắn ráo riết, chúng lại rút chạy về Tân An và chờ thời cơ tấn công đợt mới, ta lại phục kích, tập kích bất ngờ không cho chúng tiến lên. Cứ như thế, Đại đội 2 của Duy phối hợp với Trung đoàn bộ binh 5 chiến đấu giằng co với địch suốt 22 ngày đêm ngoan cường.


Ông Dương Đức Duy kể chuyện “trận đánh cuối cùng” tại nhà riêng ở số 71, đường Hàn Thuyên, phường Rạch Dừa, TP.Vũng Tàu

10 giờ ngày 30/4/1975, bỗng hàng loạt máy bay địch lượn trên đầu nhưng không bắn phá vào trận địa. Duy mở chiếc rađiô nhỏ thì nghe tiếng Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi: “Hỡi sĩ quan binh lính Việt Nam cộng hòa. Tôi Dương Văn Minh - Tổng thống Việt Nam cộng hòa, kêu gọi tất cả binh lính sĩ quan cộng hòa ở đâu cố gắng giữ ở đó, tránh đụng độ với bộ đội giải phóng, để Chính phủ Việt Nam cộng hòa liên hệ với Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đi đến hòa bình, tránh đổ máu”.

Và chưa đầy 3 phút sau, tất cả binh lính Mỹ Nguỵ xung quanh đó đứng ào dậy như rừng người, hô lớn: “ới các anh bộ đội giải phóng ơi, chúng tôi đầu hàng rồi, đừng bắn chúng tôi nữa”.

Đại đội trưởng Duy dùng súng AK bắn một loạt chỉ thiên và hô: “Hỡi sĩ quan binh lính Việt Nam cộng hòa. Theo chính sách của Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam, các anh đã đầu hàng rồi. Hãy bỏ vũ khí tại chỗ và về sum họp với gia đình”.

Nghe thế, tất cả lính Nguỵ cởi bỏ áo, giày, nón, vũ khí tại chỗ và hô to “hoan hô hoan hô”. Sau đó chúng tràn ra Quốc lộ 4 leo lên xe tải và về Sài Gòn. Duy chỉ huy đại đội về Long An tiếp tục nhận nhiệm vụ mới.


Quân Ngụy tháo chạy. Ảnh: Tư liệu

Ước nguyện

Trong niềm vui ngày giải phóng, Quốc lộ 4 Tân An-Cầu Voi, Long An rực rỡ cờ hoa. Nhân dân hai bên đường ra chào đón các anh bộ đội giải phóng chiến thắng về làng. Xen lẫn tiếng nói cười của hàng vạn người dân, bước chân rầm rập của bộ đội là những câu hô vang “bộ đội giải phóng, bộ đội giải phóng, hoan hô, hoan hô”.


Ông Duy tặng huy hiệu cho thế hệ lính trẻ đơn vị cũ.

Đi giữa hàng quân trong lòng nhân dân ngày đại thắng, chúng tôi rạng rỡ niềm vui, chúng tôi reo hò trước sự đón chào nồng nhiệt của người dân Long An.

Tuy nhiên trận chiến đấu ấy có đồng đội vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Đại đội tôi có chiến sĩ Nguyễn Văn Hiến bị mảnh bom vào đầu, vỡ sọ. Trước khi ra đi, anh gọi tôi đến và nói rằng: “Em biết một vài tiếng nữa là em chết. Nếu sau này anh còn sống trở về quê, anh về quê em nói với cha mẹ em là em chết ngày hôm nay”.

Ông Duy nghẹn ngào khi nói về đồng đội và lật từng trang nhật ký cho tôi xem. Trong ấy ghi đầy đủ từng trận chiến đấu và tên đồng đội của ông đã hy sinh.


Nhật ký đời lính của ông Duy

Lần theo địa chỉ, ông Duy về Hưng Yên để báo tin cho cha mẹ Hiến - người đồng đội của ông đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Giữa mùi hương trầm ngan ngát, bao ký ức chiến tranh ùa về, hình bóng Hiến trước lúc hy sinh như hiển hiện trước mặt ông. Mắt ông Duy cay cay. Ông khóc cho đồng đội, khóc về niềm tự hào của cuộc đời quân ngũ và khóc cho hy sinh vinh quang của những người đang nằm dưới mộ.

Đến hôm nay, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam đã lùi xa 42 năm, đồng đội của ông Duy người còn, người mất, người tật nguyền, người mất mát một phần cơ thể. Bản thân ông Duy cũng là thương binh hạng 3, và nhiễm trực tiếp chất độc da cam đi-ô-xin.

Ông bảo: “Nguyện vọng của tôi những ngày cuối của cuộc đời tìm về những đồng đội cũ, anh em chúng tôi đã chung nhau trên chiến hào giải phóng miền Nam. Trong trận chiến cuối cùng ấy có nhiều đồng đội thân yêu của tôi nằm xuống”.

Vết thương không mảnh đạn

Ngày rời quân ngũ trở về, cũng là ngày ông Duy đem trong mình chất độc đi-ô-xin mà bản thân ông cũng không hề biết. Như bao người lính khác sau thời cầm súng, ông Duy lấy vợ rồi sinh con. Đứa con gái đầu lành lặn nhưng đầu óc “khác thường”.


Cựu binh Dương Đức Duy bên con gái nhiễm chất độc da cam

“Tuy không vui nhưng vợ chồng ngậm ngùi chấp nhận. Vợ chồng kế hoạch sinh đứa sau sẽ trọn vẹn. Rồi ngày vui ấy cũng tới. Niềm hy vọng dồn nén vào đứa con thứ hai. Ai ngờ nó còn nặng hơn. Lúc đó tôi nghi mình nhiễm chất độc da cam, còn vợ tôi chỉ nhìn con mà khóc”, ông Duy chia sẻ.

“Cháu Hương sinh năm 1981 ở Bệnh viện Lê Lợi, thành phố Vũng Tàu. Khi mới sinh ra, nó bị xuất huyết ngoài da, cả người đỏ rực như quả gấc. Một tuần tuổi, cháu bị tắc ống mật, bú thế nào thì đi cầu như thế, phân trắng đục như sữa. Vợ chồng tôi sợ quá, vội đưa cháu đi Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP.HCM. Hơn một tháng điều trị, cháu đi phân thành khuôn. Khi ở Bệnh viện Nhi Đồng 1, cháu đã “khai tử”, tức là chết lâm sàng. Gia đình tôi đã làm thủ tục để đưa cháu về nhà xác và đi chôn, thì nó tỉnh dậy. Thế là bệnh viện cho về nhà. Một năm sau cháu biết lật, cả nhà mừng lắm. Vợ chồng bảo nhau: Con mình bị bệnh nên chậm lật, chậm lớn là thường. Nhưng không phải thế, cháu chỉ biết lật và liệt luôn từ đó đến bây giờ không phát triển gì thêm nữa. Cuộc sống thực vật hoàn toàn vô tri vô giác”.

Chị Vòng, mẹ của em Hương nói: “Đẻ nó ra không giống đứa trẻ khác, khóc và ngơ ngẩn cả ngày đêm. Lúc đó vợ chồng tôi chưa biết chất độc da cam là gì nên rất sợ. Tưởng con mình bị trọng bệnh nên đưa hết bệnh viện này nhà thương kia, kể cả cúng bái đuổi ma tà nhưng đành thất vọng”.

Như để minh chứng cho con gái mình bị nhiễm chất độc da cam, ông Duy kể cho chúng tôi về đời lính của ông.

“Năm 1965, tôi lên đường nhập ngũ. Ngày 03/02/1966 tôi đi B (đi B là đi chiến đấu ở chiến trường miền Nam lâu dài). Các chiến trường miền Đông Nam bộ, Quảng Trị, Tây Ninh, Bình Dương, biên giới Campuchia tôi đều có mặt. Trong nhiều lần đơn vị tôi hành quân trong rừng Tây Ninh và miền Đông Nam bộ, tôi đã tận mắt nhìn thấy máy bay C130 lượn trên đầu và phun nước gì đó trắng như nước vôi. Ba ngày sau, toàn bộ lá cây cánh rừng Tây Ninh rụng hết lá. Lá rụng xuống đất dầy nửa mét, ba ngày mà vẫn xanh như ướp đá lạnh, không úa héo. Lúc đó cả đơn vị không ai biết chúng rải chất độc nên không phòng tránh gì, mà chỉ đi sùng sục máy bay tiêu diệt. Chất độc da cam đã lột trụi cánh rừng rộng lớn, nhưng lạ lắm anh à, chất độc ấy chỉ làm cây rụng lá chứ thân cây không chết, từ đó bộ đội chúng tôi gọi là cây bất khuất. Mấy hôm sau, chúng rải bom Na-pan (bom cháy). Cả cánh rừng bùng cháy như biển lửa, đơn vị tôi phải di tản đào hầm ẩn nấp. Ngày dưới lòng đất, đêm mới dám lên trên. Cả đất trời Tây Ninh lúc ấy như núi lửa phun trào. Đất lở, nhựa cây rừng chảy như nham thạch. Sau đó, tôi tiếp tục chiến đấu ở chiến trường Bàu Lâm, Hòa Bình, Long Khánh, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Trong đơn vị của tôi, có nhiều người cùng chung số phận nhiễm chất độc da cam”. Ông Duy nghẹn ngào nơi cổ họng, những giọt nước mắt như đặc quánh không rịn ra được nữa./.

Mai Thắng

Chia sẻ bài viết