Tiếng Việt | English

05/08/2020 - 19:57

Vitamin D - “lá chắn” kỳ diệu cho sức khỏe

Hệ miễn dịch (HMD) là một hệ thống phức tạp, là “lá chắn” bảo vệ cơ thể trước những tác nhân gây bệnh từ môi trường. Để xây dựng một HMD cơ thể khỏe mạnh cần có sự tham gia của nhiều yếu tố. Khoa học đã chứng minh Vitamin D có hiệu quả nâng cao miễn dịch thông qua nhiều cơ chế khác nhau.

HMD giúp phòng chống lại những chất lạ, đặc biệt các vi khuẩn, siêu vi, vi nấm… Khi một chất lạ “xâm nhập” vào trong cơ thể, HMD nhanh chóng “điều quân” như các chiến binh ra chặn đứng và loại trừ… “kẻ lạ”.

Hệ miễn dịch - kẻ “gác cửa” trọng yếu

Đầu tiên, các “chiến binh” của HMD là “thực bào” (macrophage), một loại tế bào bạch cầu, đến tấn công “ăn thịt” mầm bệnh, đồng thời gửi cảnh báo thông tin đến toàn hệ miễn dịchlà có kẻ thù xâm nhập. Các “chiến binh” này dồn về đóng quân tại các căn cứ gần quân địch nhất đó là các hạch bạch huyết (nằm ở mang tai, cổ, nách, bẹn).

Kế tiếp là hoạt động của các tế bào bạch cầu gọi là tế bào lympho. Tế bào lympho sinh ra trong tủy xương. Một số ở lại tủy và phát triển thành tế bào lympho B (tế bào B), số khác đi đến tuyến ức và trở thành tế bào lympho T. Tế bào B phát sinh từ tủy xương và tăng trưởng trong các dịch cơ thể. Các tế bào B có khả năng phân biệt các tế bào của cơ thể và tế bào lạ là mầm bệnh xâm nhập. Các tế bào B sẽ bám lấy chất lạ là mầm bệnh, và có phản ứng bằng cách sản xuất thật nhiều chất gọi là kháng thể. Mỗi tế bào lympho B tạo ra một kháng thể cụ thể.  Có 2 loại tế bào lympho T khác nhau: Các tế bào Helper T (tế bào lympho T giúp đỡ) - phối hợp các phản ứng miễn dịch bằng cách kích thích tế bào B tạo ra nhiều kháng thể hơn. Các tế bào Killer T (tế bào lympho T gây độc tế bào hay tế bào T giết) - như tên gọi, các tế bào T này tấn công các tế bào khác là mầm bệnh, đặc biệt hữu ích trong tiêu diệt các tế bào bị nhiễm bệnh.

Vitamin D được tổng hợp thông qua ánh nắng mặt trời

Hiệu năng đa dạng của vitamin D

Vitamin D là một trong 4 vitamin tan trong dầu (gồm vitamin A, D, E, K). Vitamin D có tên khoa học là calciferol, được cung cấp từ thực phẩm có hai dạng: vitamin D2 hay ergocalciferol hiện diện trong thực vật, có trong nấm men và một số loại nấm. Vitamin D3 hay cholecalciferol có trong động vật, nhiều nhất là dầu gan cá biển sâu. Vitamin D không chỉ là “của trời cho”  tìm thấy từ các loài động vật mà còn thấy từ một số loài thực vật. Một số loại nấm, đặc biệt là vi nấm như nấm men (yeast) chứa sẵn hợp chất esgosterol biến thành ergocalciferol tức vitamin D2 . Với con người chúng ta, ở vùng thượng bì của da có chứa hợp chất 7-dehydrocholesterol cũng được xem là tiền vitamin D. Khi có tia cực tím có trong ánh nắng mặt trời (đặc biệt là UVB, có bước sóng 290-325nm) chiếu vào da sẽ biến tiền vitamin D thành cholecalciferol tức vitamin D3. Các nhà khoa học ghi nhận, chỉ cần 10 phút để cho hai tay và khuôn mặt lộ ra dưới nắng mặt trời không cần gắt lắm là đủ cho việc tổng hợp vitamin D với lượng cần thiết cho cả một ngày.

Vai trò chính của vitamin D là tạo xương bằng cách duy trì lượng calci và phospho có sẵn trong cơ thể để hóa xương. Nếu thiếu vitamin D, sẽ thiếu chất khoáng cho xương và răng đưa đến còi xương, nhuyễn xương, loãng xương, răng của trẻ không phát triển tốt. Ngày nay, người ta còn phát hiện thêm tác dụng mới của vitamin D. Đó là tăng cường HMD, tức giúp nâng cao sức đề kháng của cơ thể chống lại các bệnh nhiễm trùng, đặc biệt là biệt hóa bạch cầu thành những tế bào có sức chiến đấu cao có khả năng tiêu diệt mầm bệnh.

Cơ chế nâng cao miễn dịch của Vitamin D đã được chứng minh thông qua việc cải thiện hoạt động của tế bào T giúp đỡ và cả tế bào T giết… Một khi tế bào T được kích hoạt thì tế bào B cũng được kích hoạt. Nghĩa là hầu như kích hoạt toàn bộ HMD.

Nâng cao HMD không chỉ giúp các tế bào miễn dịch chống lại tác nhân gây hại tốt hơn mà còn giúp các tế bào miễn dịch “xung đột” lẫn nhau, hay còn gọi là bị bệnh “tự miễn”. Vì vậy, vitamin D còn được chứng minh là nòng cốt trong việc kích hoạt tế bào T, loại tế bào liên quan nhiều bệnh lý tự miễn như chàm da hoặc dị ứng như hen suyễn…

Những năm 1990 của thế kỷ trước, tỷ lệ hen suyễn ở mọi lứa tuổi đều tăng đột biến. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành đánh giá các yếu tố gây tăng hen suyễn, đặc biệt ở trẻ em. Một trong những giả thuyết được đưa ra đó chính là vì con người chủ yếu làm việc trong văn phòng, ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời nên thiếu hụt vitamin D - loại vitamin không chỉ liên quan đến hệ cơ xương mà còn liên quan đến hệ miễn dịch.

Sữa mẹ chứa rất ít vitamin D3 nên bản thân mẹ trong giai đoạn mang thai phải bổ sung cả canxi-vitamin D3 và bé bú mẹ hoàn toàn nên bổ sung vitamin D3. Một câu hỏi đặt ra: “Nếu mẹ nguy cơ cao hen suyễn, bổ sung vitamin D trong thai kỳ thì liệu có phòng ngừa được hen suyễn cho con không?”.

Năm 2016, thử nghiệm lâm sàng VDAART được công bố sau 7 năm dày công nghiên cứu chứng minh rằng, bổ sung vitamin D3 liều 4400IU giúp nâng nồng độ 25-hydroxyvitamin D trong máu cao hơn nhóm bổ sung 400IU.  Kết quả từ thử nghiệm VDAART cũng ghi nhận: “Mẹ bổ sung vitamin D suốt thai kỳ giúp giảm tỷ lệ khò khè (giảm tỷ lệ khò khè chứ không giảm hẳn tỷ lệ hen suyễn) ở trẻ nhỏ, đặc biệt, trong năm đầu tiên của cuộc đời”.

Một số nghiên cứu khác cũng chứng minh việc bổ sung vitamin D cho trẻ giúp giảm tỷ lệ khò khè ở trẻ em tuổi mẫu giáo. Một trong những nguyên nhân phổ biến nhất của khò khè ở nhóm trẻ tuổi mẫu giáo là nhiễm siêu vi, không liên quan dị ứng như hen suyễn; nên nghiên cứu này tiếp tục nhấn mạnh vai trò của vitamin D đối với HMD./.

Ở Việt Nam, nhu cầu khuyến nghị về Viatmin D năm 2007 là 200 IU/ngày ở trẻ em và người trưởng thành (kể cả phụ nữ có thai và cho con bú), 400 IU/ngày ở người 51 - 60 tuổi, và 600 IU/ngày với người > 60 tuổi. Nhưng bằng chứng từ những nghiên cứu dịch tễ học gần đây cho thấy, tỷ lệ thiếu Vitamin D ở người Việt Nam trong những năm qua rất cao so với các nước xung quanh, ở tất cả các lứa tuổi và tình trạng sinh lý. Vì vậy, bảng nhu cầu khuyến nghị về Vitamin D lần này đã cập nhật theo khuyến nghị của Viện nghiên cứu Y học Hoa Kỳ năm 2011, trong đó, nhu cầu Vitamin D ở trẻ < 1 tuổi là 400 IU/ngày, ở trẻ em từ 1 tuổi trở lên và người trưởng thành < 50 tuổi là 600 IU/ngày, ở người trưởng thành từ 50 tuổi trở lên và phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú là 800 IU/ngày.

Theo Sức khỏe và Đời sống

 

Chia sẻ bài viết