Lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức được dòng họ giữ gìn tốt
Nổi tiếng trung nghĩa
Khi anh hùng áo vải Nguyễn Huệ bắt được, muốn giữ làm bề tôi vì mến tài đức, Nguyễn Huỳnh Đức không chịu nên sau 3 năm nương náu, ông trốn về với chúa Nguyễn.
Con nhà võ tướng, ông có cha và ông nội đều theo nhà Nguyễn, được phong chức Cai đội. Luyện binh từ nhỏ, ông được sách sử chép lại là có "dung mạo khôi ngô, khỏe mạnh hơn người, ai cũng coi là “Hổ tướng”".
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện kể nhiều về mối thâm tình của Huỳnh Đức với vua Gia Long. Trong đó có việc, khi vua tôi nhà Nguyễn phải chạy tan tác vì bị quân Tây Sơn đánh thua xiểng liểng ở Sài Gòn, Huỳnh Đức vẫn chạy theo cứu giá. Ông lựa đường đưa vua lên thuyền trốn về miền Tây. Vừa sợ quân Tây Sơn truy kích, vừa mệt mỏi, giữa đêm vua gối đầu vào đùi Huỳnh Đức ngủ. “Hổ tướng” cứ thế xua muỗi suốt đêm cho vua, vừa canh chừng động tĩnh. Gia Long sau đó khen ông là người có lòng trung quân.
Năm 1783, Nguyễn Huỳnh Đức đánh với quân Tây Sơn nhưng thua, bị bắt cùng 500 thuộc hạ. Nguyễn Huệ thấy ông khỏe mạnh, muốn thu dùng nhưng ông chỉ một lòng với Nguyễn Ánh, luôn nuôi ý trốn về. Thời gian lưu lại doanh trại của Nguyễn Huệ, do nhớ thương chủ cũ nên trong lòng ông thường phẫn uất. Một đêm mơ ngủ, Nguyễn Huỳnh Đức quát mắng Nguyễn Huệ rất to. Quân tướng giận, muốn đem giết nhưng vị anh hùng áo vải cho là lời trong giấc ngủ, không nỡ bắt tội.
Nguyễn Huỳnh Đức - một trong “ngũ Hổ tướng đất Gia Định”
Nguyễn Huệ còn cho nhiều châu ngọc, muốn tỏ sự hậu đãi để lôi kéo nhưng ông vẫn không suy chuyển. Ông lập lời thề với Quang Trung rằng, chỉ giúp đánh họ Trịnh chứ không quay giáo đánh chúa Nguyễn. Vị anh hùng Tây Sơn vì thế càng mến tài trung nghĩa của ông. 3 năm sau, Nguyễn Huệ dẫn quân ra Bắc đánh họ Trịnh nên đưa Nguyễn Huỳnh Đức theo. Khi về, ông được để lại giữ đất Nghệ An cùng tướng trấn thủ Nguyễn Văn Duệ. Người này vốn là thuộc hạ của Nguyễn Nhạc nên không thích ở dưới quyền của Nguyễn Huệ. Huỳnh Đức nhân đó lập mưu bảo Duệ theo đường tắt trong rừng mà lẻn về Quy Nhơn với Nhạc. Duệ tin lời, đem hơn 5.000 quân theo đường rừng về Nam. Khi đi, Duệ sai ông đi trước mở đường.
Được hơn 10 ngày, ông cho người đến tạ ơn Duệ rồi đưa thuộc hạ sang hướng khác, tránh Duệ mang quân truy đuổi. Đi đường rừng hiểm trở, mất nhiều thời gian nên lương cạn, quân sĩ phải ăn lá cây. Sau cùng, ông đến được Xiêm La (Thái Lan), vua ở đây cũng muốn giữ lại làm tướng nhưng ông nhất quyết về Sài Gòn tìm chúa Nguyễn Ánh. Năm 1799, ông được thăng chức Chưởng quản Hữu quân dinh, ra đánh lấy được Phan Rí. Ông cũng dẫn quân tham chiến trận Thị Nại, chiếm thành Quy Nhơn, giúp Nguyễn Ánh xoay chuyển cục diện chiến trường. Sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh giao ông trấn giữ thành Quy Nhơn.
Bàn thờ hổ với bộ da hổ nhồi trấu bên trong đền thờ
Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Huỳnh Đức được phong Quận công. Năm 1810, ông được làm Tổng trấn Bắc thành kiêm Khâm sai Chưởng tiền quân. 6 năm sau, ông làm Tổng trấn Gia Định cùng Hiệp Tổng trấn Trịnh Hoài Đức, cai quản toàn miền Nam. Năm 1819, Nguyễn Huỳnh Đức mất khi đang tại chức, thọ 71 tuổi, an táng ở Long An. Ông được thờ ở miếu Trung hưng công thần tại Huế.
“Hổ chết để da, người ta chết để tiếng”
Cách trung tâm TP.Tân An chừng 3,5km về phía Tây, lăng Nguyễn Huỳnh Đức là một quần thể kiến trúc bao gồm các công trình chính như cổng, lăng mộ và đền thờ Kiến Xương Quận công.
Lăng mộ được xây dựng theo lối kiến trúc đầu đời Nguyễn. Đặc biệt, bên trong đền thờ có bàn thờ hổ với bộ da hổ nhồi trấu. Ông Nguyễn Huỳnh Thoại - cháu đời thứ 7, người trông coi lăng mộ giải thích: “Năm 1965, bộ da hổ này được tặng để tỏ lòng kính trọng một bậc công thần khai quốc triều Nguyễn. Đồng thời, cũng với ý nghĩa là cụ dũng mãnh như hổ”.
Tiến sĩ Lê Hữu Phước - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, cho biết, ông đã dành thời gian nghiên cứu về “Hổ tướng” đất Nam bộ. Đây là võ tướng trung nghĩa vẹn toàn; tướng quân được nhiều vua chúa yêu mến, quý trọng vì lòng trung nghĩa, đạo đức. Tìm hiểu về Nguyễn Huỳnh Đức qua dấu ấn ông để lại, thế hệ hôm nay có cái nhìn bao quát hơn về lịch sử vùng đất Tân An, Long An nói riêng, vùng sông nước Tây Nam bộ, vùng đồi núi Đông Nam bộ, Trung Nam triều đại phong kiến Nguyễn Ánh - Tây Sơn nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Ông cho rằng, công đức của tiền nhân là di sản hết sức quý báu, thiêng liêng mà các thế hệ kế thừa phải nối tiếp nhau giữ gìn và phát huy giá trị. Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức - một khai quốc công thần của triều Nguyễn, một trong “Ngũ hổ tướng đất Gia định”, người có công khai phá Giồng Cái Én (Khánh Hậu) chính là bậc tiền nhân được lưu danh hiển hách trong sử sách và được nhân dân địa phương tôn thờ như một vị thần vẹn toàn trung nghĩa.
Bí thư Đảng ủy phường Khánh Hậu - Nguyễn Quốc An cho biết, năm 2021, 2 cổng lăng đền thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được UBND TP.Tân An đầu tư 700 triệu đồng để tôn tạo nhưng vẫn bảo tồn nguyên trạng di tích đã có. Thành phố cố gắng giữ lại cổng lăng cũ có lối kiến trúc cổ xưa. Những ký ức xung quanh cổng lăng này đã đi vào lòng của bao thế hệ người Long An nói chung và người dân Khánh Hậu nói riêng.
Những cổ vật quý tại đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức
Tấm lòng trung hiếu của “Hổ tướng” Nguyễn Huỳnh Đức được đời sau ca tụng qua nhiều câu thơ: Quận công Huỳnh Đức nghĩa trung/ Cảm lòng chúa Nguyễn, Quang Trung mến tài/ Hổ tướng có một, không hai/ Người đầy dũng mãnh mấy ai sánh bì?/ Một lòng thề nguyện khắc ghi/ Phò vua vượt khó sá chi thân mình/ Qua khốn khổ đến bình minh/ Công trạng như núi hiển vinh muôn đời./.
Nguyễn Huỳnh Đức, tên thật Huỳnh Tường Đức, sinh tại làng Tường Khánh, huyện Kiến Hưng (nay thuộc phường Khánh Hậu, TP.Tân An). Nhờ lập được nhiều công lao nên được vua Gia Long ban quốc tính họ Nguyễn, phong làm Quận công. Ông là danh tướng và công thần khai quốc của nhà Nguyễn, được giao giữ chức Tổng trấn Bắc thành năm 1810-1816, rồi trở về Nam làm Tổng trấn Gia Định thành từ năm 1816 đến khi mất.
Lăng Nguyễn Huỳnh Đức được công nhận Di tích lịch sử - văn hóa từ năm 1993, là một trong những kiến trúc lăng mộ cổ nhất tại Long An tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay. Hàng năm, vào 3 ngày (mùng 7, 8 và 9 tháng 9 Âm lịch), người dân Long An và Tiền Giang tề tựu cùng gia tộc làm lễ cúng giỗ ông rất trọng thể. Truyền thống này được kế tục từ năm 1819 đến nay. Tên ông được đặt cho nhiều đường tại các tỉnh miền Tây như Long An, Kiên Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long.
|
Thanh Nga