Tiếng Việt | English

03/06/2020 - 10:19

Thanh toán điện tử: Tạo cơ chế giúp doanh nghiệp hồi phục sau COVID-19

Theo một thống kê mới đây, tốc độ tăng trưởng mobile banking của người dân Việt Nam là 200% với khoảng 30 triệu người sử dụng hệ thống thanh toán ngân hàng mỗi ngày.


Thanh toán bằng QRCode đang trở nên phổ biến trong nhiều giao dịch. (Nguồn: TTXVN)

Những ngày qua không phát sinh thêm ca nhiễm mới trong cộng đồng, điều đó đã cho thấy kết quả đáng khâm phục của toàn hệ thống chính trị trong nỗ lực chung phòng, chống dịch bệnh COVID-19.

Theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thông qua những biện pháp trợ giúp kịp thời của Chính phủ, tình hình chung của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang dần được cải thiện.

Nhiều doanh nghiệp đã được "vực dậy" và nhanh chóng hoạt động trở lại. Thậm chí, không ít trong số đó còn rất lạc quan và có kế hoạch mở rộng hay phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu đặt ra trong năm 2020, nhiều doanh nghiệp bày tỏ mong muốn được Nhà nước tạo các cơ chế, chính sách thuận lợi để tập trung nguồn lực đầu tư phát triển và khôi phục sản xuất kinh doanh.

Doanh nghiệp mong Chính phủ và các bộ, ngành sớm xóa bỏ những chồng chéo, bất hợp lý và bảo đảm sự minh bạch, nhất quán trong hệ thống pháp luật kinh doanh, nhất là các quy định pháp luật về tài chính, đầu tư và xây dựng…

Một trong nhiều vấn đề được doanh nghiệp quan tâm nhất hiện nay là các dịch vụ thanh toán số - công cụ hỗ trợ đắc lực cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và thương mại của doanh nghiệp; đồng thời cũng là giải pháp công nghệ đưa doanh nghiệp tiệm cận tới tầng nấc phát triển cao hơn, phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, Việt Nam đã có những tiến bộ nhất định về việc xây dựng hành lang pháp lý cho dịch vụ thanh toán số, song vẫn còn những trở ngại về thủ tục giấy tờ trong hệ thống các văn bản hiện hành khiến thanh toán số chưa thể mở rộng nhanh và dễ dàng tới nhóm khách hàng ưa tiện lợi.

Cụ thể như thiếu sự phù hợp giữa các quy định về chứng từ điện tử hiện hành và tính chất đặc thù của những chứng từ điện tử phát sinh trong các giao dịch số. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với các lĩnh vực chứng thực chữ ký số đã được ban hành, nhưng còn nhiều hạn chế. Vấn đề bảo vệ tính riêng tư dữ liệu người dùng vẫn chưa đảm bảo.

Đặc biệt, trong khi các định chế tài chính truyền thống đang chịu nhiều ràng buộc pháp lý để đảm bảo an toàn hệ thống thì các quy định pháp lý đối với các công ty Fintech (tài chính ngân hàng) ở Việt Nam còn chưa đầy đủ.

Ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Vụ thanh toán - Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong giai đoạn vừa qua, đặc biệt là thời điểm bùng phát dịch COVID-19, đặt ra vấn đề phải kết nối hệ thống như kết nối các hệ thống dịch vụ công, đóng tiền điện, hay kết nối mobile banking với dịch vụ đi chợ.

Theo một thống kê mới đây, tốc độ tăng trưởng mobile banking của người dân Việt Nam là 200% với khoảng 30 triệu người sử dụng hệ thống thanh toán ngân hàng mỗi ngày.

Như vậy chứng tỏ tiềm năng của các dịch vụ thanh toán điện tử cũng như dư địa phát triển của các ngân hàng số mà Việt Nam đang tích cực triển khai còn rất lớn.

Với sự phát triển về công nghệ, trong khi ngân hàng truyền thống phải xử lý hồ sơ tín dụng cho các doanh nghiệp mất khoảng 1 tuần thì ngân hàng số có thể giải ngân cho doanh nghiệp chỉ sau khoảng 2 giờ bằng cách số hoá toàn bộ dữ liệu, dùng công nghệ thẩm định tín dụng.

Việt Nam cũng đã có khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán số và đang trên đà hoàn thiện. Vấn đề đặt ra là phát triển những mô hình mới.

Do đó, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ xây dựng, ban hành Chương trình Hành động thực hiện Nghị quyết 50/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng số, thanh toán số; trong đó, có Nghị định mới về thanh toán không dùng tiền mặt, hướng dẫn về định danh, xác thực khách hàng bằng phương thức điện tử (e-KYC); Thí điểm dùng tài khoản viễn thông để thanh toán cho các dịch vụ có giá trị nhỏ (mobile money).

Đặc biệt, theo ông Dũng, các cấp, ngành cũng cần hoàn thiện hệ thống hạ tầng công nghệ số; trong đó, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hạ tầng công nghệ ngành ngân hàng; Tăng cường tích hợp, kết nối hạ tầng, ứng dụng của ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực dịch vụ khác để mở rộng hệ sinh thái số.

Đánh giá thực trạng phát triển của dịch vụ thanh toán điện tử, tiến sỹ Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, trong xu hướng phát triển ngân hàng số toàn cầu, có nhiều ý kiến cho rằng chúng ta chậm nên cần “chạy” nhanh hơn.

“Theo tôi, đúng là chúng ta chậm, nhưng chậm mà chắc, đừng nôn nóng, vội vã khi hạ tầng công nghệ còn yếu; hoạt động lừa đảo, gian lận chưa kiểm soát hoàn toàn. Ở Việt Nam hiện còn khoảng 40% người dân không có tài khoản ngân hàng. Do đó, để mời gọi họ sử dụng hệ thống thanh toán quốc gia thì phải kích thích họ dùng ví điện tử," chuyên gia này nói.

Tiến sỹ Hiếu nhấn mạnh: “Đối với ví điện tử, không có điều kiện bảo đảm cho người dùng, bởi tiền của họ có thể được sử dụng cho mục đích đầu tư khi hiện nay có hình thức đầu tư qua đêm và hình thức đầu tư trong ngày. Đây cũng có thể là một rủi ro cho người dùng. Nếu kiểm soát được vấn đề này và có chế tài chặt chẽ, công nghệ cao để kiểm soát thì sẽ phát triển lành mạnh được các loại hình ví điện tử.”

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã khá thành công trong áp dụng thanh toán điện tử, đặc biệt trong đợt dịch vừa qua.

Ông Nguyễn Chiến Thắng, Giám đốc Ngân hàng số BIDV cho biết, trước năm 2010, thẻ ATM là cuộc cách mạng chuyển dịch từ giao dịch tiền mặt, BIDV đã bắt kịp và trở thành top 3 ngân hàng có số điểm giao dịch lớn nhất.

Để phát huy mạng lưới này, hiện khách hàng không nhất thiết phải dùng thẻ vật lý mà có thể dùng Pay+ để tạo ra, chấp nhận các QR code để rút tiền, thanh toán…

Với mạng lưới hơn 1.200 chi nhánh, BIDV tối ưu hóa và đưa ra e- Zone như một ki ốt mà tại đó khách hàng được trải nghiệm hành trình số hóa nạp tiền, rút tiền… như tại ngân hàng truyền thống.

Trong đợt dịch bệnh COVID-19, các dịch vụ trên smart banking của ngân hàng đạt tăng trưởng lớn; trong đó khách hàng có thể sử dụng đến 1.300 loại giao dịch thanh toán, chiếm 85% tổng giao dịch các kênh điện tử của BIDV, xử lý bình quân 15,5 triệu giao dịch/tháng với tổng giá trị 11.000 tỷ đồng. BIDV đã tích hợp VinID với hạng mục “đi chợ online” để tăng tiện ích cho khách hàng.

Về kênh ngân hàng số cho vay BIDV home banking, hiện ứng dụng đã kết nối với 22 sàn giao dịch bất động sản của 12 chủ đầu tư với thao tác đơn giản, các chính sách ưu đãi về lãi suất lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. Ứng dụng sẽ mở rộng với một hệ sinh thái địa ốc trên toàn quốc và mở rộng ra ô tô, đồ gia dụng…

Với đối tượng khách hàng là doanh nghiệp, BIDV cũng đã có kênh ngân hàng số eBank, khách hàng có thể sử dụng các giao dịch tài trợ thương mại, mở LC…

Cũng trong đợt dịch vừa qua, lượng giao dịch qua eBank tăng gấp 7 lần. BIDV cũng tăng tính năng ứng dụng công nghệ khi sử dụng các phương thức xác thực khuôn mặt, vân tay.

Trong Chiến lược năm 2020, phát triển ngân hàng đến 2025 tầm nhìn 2030, BIDV xác định công nghệ và ngân hàng số là một trong 3 trụ cột trong chiến lược phát triển chính của ngân hàng nên định hướng phát triển ngân hàng số trong thời gian tới sẽ tập trung phân phối số; Xây dựng hệ sinh thái mở; Xây dựng năng lực số; Phát triển marketing số hóa./.

Theo TTXVN

Chia sẻ bài viết


 
Liên kết hữu ích