Tiếng Việt | English

19/10/2025 - 10:30

Giai thoại về những người phụ nữ xứ Huế

Ở Huế có nhiều giai thoại về những người phụ nữ đã định hình nên đất trời quê hương xứ sở, được lưu truyền đến ngày nay. Những giai thoại đó luôn là một nét chấm phá đặc sắc trong bức tranh văn hóa Việt Nam. Từ trong chốn cung đình đến cuộc sống đời thường, phụ nữ Huế hiện lên với vẻ đẹp vừa thanh tao, dịu dàng, vừa ẩn chứa một bản lĩnh kiên cường đáng ngưỡng mộ.

Phụ nữ Huế duyên dáng với áo dài tím

Huyền Trân công chúa đem hai châu Ô, Lý về cho Đại Việt

Huyền Trân công chúa, sinh năm Đinh Hợi 1287, là công chúa duy nhất của vua Trần Nhân Tông. Bà là em gái của vua Trần Anh Tông. Năm 1301, Thượng hoàng Trần Nhân Tông cùng phái bộ vân du qua Champa đã hứa gả Huyền Trân công chúa cho vua Champa là Chế Mân (Jaya Sinhavarman III).

Năm 1305, Chế Mân sai sứ là Chế Bồ Đài đem hơn 100 người và vàng bạc, hương liệu quý, vật lạ sang Đại Việt cầu hôn, xin nộp đất 2 châu Ô, Lý làm sính lễ. Đất 2 châu Ô, Lý kể từ Nam sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị vào Bắc sông Thu Bồn, TP.Đà Nẵng ngày nay. Năm 1306, Chế Mân đón Huyền Trân công chúa về Champa.

Chế Mân mất vào tháng 5/1307. Đến tháng 9/1307, thế tử Champa là Chế Đa Đa sai bầy tôi là Bảo Lộc Kê sang Đại Việt dâng voi trắng và cáo việc tang. Tháng 10/1307, vua Trần Anh Tông sai Hành khiển Trần Khắc Chung và Đặng Vân sang Champa điếu tang và lập kế đưa Huyền Trân công chúa về nước. Bà qua đời vào năm 1340.

Hậu thế xem Huyền Trân công chúa như là người đã khai canh ra vùng đất Thuận Hóa, Huế. Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc. Vua triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa “trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng”, nâng bậc tăng là “Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần”.

Ngày nay, để nhớ ơn vị công chúa này, một Trung tâm văn hóa mang tên Huyền Trân đã được lập nên tại vùng núi Ngũ Phong của TP.Huế.

“Bà tiên áo đỏ” giúp chúa Nguyễn Hoàng định đô lập quốc

Khi vào trấn thủ xứ Thuận - Quảng, chúa Nguyễn Hoàng bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Người dân địa phương cho biết, đây là đồi Hà Khê, đêm đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”.

Tin vào lời sấm truyền đó, năm 1601, chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương đặt tên là chùa Thiên Mụ, mở ra sự cai trị của nhà Nguyễn với 9 chúa, 13 vua.

Với vị trí chiến lược đặc biệt - nối giữa hai miền Nam - Bắc, Huế từng là thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, kinh đô của 13 triều vua nhà Nguyễn. Huế là nơi khởi đầu công cuộc Nam tiến, mở rộng đất đai về phía Nam của dân tộc Việt Nam, tạo hình thế chữ S cho đất nước ta như ngày nay.

Huế cũng là nơi các chúa Nguyễn và các triều đại phong kiến Tây Sơn, nhà Nguyễn khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Bà Bún và nghề làm bún làng Vân Cù

Thủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù, làng bún nổi tiếng và xa xưa của Huế, là Bà Bún. Chuyện xưa kể lại rằng: Khi những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những tháp Chăm cổ xưa đã đổ nát nên sau này có tên là làng Cổ Tháp (nay thuộc xã Đan Điền, TP.Huế).

Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề làm ruộng thì có một người phụ nữ sáng chế ra nghề làm bún nhưng một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm và kẻ xấu bụng tung tin rằng mất mùa là do thần linh quở phạt vì Bà Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời” ra mà ngâm, xay nát để làm bún.

Thế là Bà Bún hoặc phải bỏ nghề làm bún hoặc sẽ bị trục xuất ra khỏi làng nhưng Bà Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi. Năm người thanh niên mạnh nhất trong làng tình nguyện theo áp tải cái cối đá làm bún và Bà Bún đến vùng đất mới. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông ven theo sông Bồ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù ngày nay (thuộc phường Kim Trà, TP.Huế).

Tại đây, Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề để nghề làm bún truyền cho đến ngày nay. Hằng năm, vào ngày 22 tháng Giêng, dân làng Vân Cù tổ chức lễ tế Bà Bún tại miếu để tôn vinh người khai sinh ra làng nghề.

Với lịch sử hơn 500 năm, nghề làm bún làng Vân Cù đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thuộc lĩnh vực Nghề thủ công truyền thống, vào ngày 10/12/2024.

Hiện làng Vân Cù còn 125 hộ với 325 lao động thường xuyên làm nghề. Sản phẩm bún tươi của làng có mặt tại hầu hết quầy bán bún ở TP.Huế và vùng lân cận.

Người phụ nữ làm nên món cơm hến

Cồn Hến thuộc phường Vĩ Dạ, TP.Huế ngày nay. Cách đây 200 năm, dưới thời vua Gia Long, vì nhà nghèo, chồng lại ngày đêm đi bắt cá tôm nên một người phụ nữ họ Huỳnh đã phải cặm cụi ra bờ sông ở cồn Hến mò bắt hến. Mỗi buổi sáng sớm, khi chưa bắt được tôm cá, người phụ nữ ấy đã chế biến ra món ăn làm từ cơm nguội ăn với hến bắt được từ sớm tinh mơ.

Món ăn dân dã này sau đó đã lan ra khắp cồn Hến. Và tầng lớp dân nghèo ở Huế bắt đầu làm quen với món ăn mới, mộc mạc này. Có cầu thì sẽ có cung, nghề cào, xúc hến, đãi hến và chế biến hến ra đời. Đến đời vua Thiệu Trị, hến đã được bán nhiều ở khắp các chợ vùng kinh đô Huế và trở thành món ăn ưa thích của nhiều người. Dưới thời vua Thành Thái, bà Nguyễn Thị Thẹp đến cào hến tiến vua tại cồn Hến, được vua phong hiệu và lập ra phường Hến. Món cơm hến cũng được đưa vào cho vua thưởng thức. Từ đó, cơm hến cồn Hến trở thành phẩm vật cung đình mỗi dịp lễ, tết.

Tấm lòng hiếu thảo hiếm có của một nàng công chúa

An Thường công chúa là con vua Minh Mạng với bà Mỹ nhân Nguyễn Thị Sâm sinh hạ vào mùa hè năm 1817.

Năm An Thường công chúa lên 9 tuổi, đúng dịp tiết Vạn Thọ thì thân mẫu bị bệnh, công chúa đành phải theo các hoàng nữ vào hầu cơm. Bấy giờ, có vị đại thần dâng tiến món đuôi dê và nầm dê (nầm dê là món nắm sữa của con dê cái), vua Minh Mạng liền ban cho các hoàng nữ món này. Công chúa chỉ ngậm mà không nhai nuốt.

Vua Minh Mạng lấy làm lạ, liền hỏi nguyên do thì An Thường công chúa liền đứng dậy thưa: “Thân mẫu của thần đang bị bệnh, không được đội ơn đến dự mà thần thì trộm nghe món này rất bổ nên không nỡ ăn, muốn để phần cho thân mẫu”. Vua Minh Mạng khen, cho riêng một đĩa, sai công chúa mang về cho thân mẫu. Năm 1840, vua Minh Mạng không được khỏe, An Thường công chúa đích thân sắc thuốc và nấu cháo để dâng tiến, sớm hôm hầu hạ. Vua Minh Mạng mất, công chúa thương xót đến ngất đi. Khi đem vua Minh Mạng đi mai táng, công chúa theo hầu bàn thờ và sau lại chực hầu đền thờ ở lăng, trọn cả 3 năm chưa từng cười đùa.

Sau vua Thiệu Trị đem An Thường công chúa gả cho Phan Văn Oánh là con trai thứ tư của Chưởng Nghĩa Hầu Phan Văn Thúy, người ở Thuận Xương, Quảng Trị. Từ ngày vu quy, công chúa chẳng hề tỏ vẻ là con vua, biết kính thờ mẹ chồng, lo việc dạy con và giữ đức khuê môn.

Bà lão nghèo và món cơm âm phủ thết đãi vua Bảo Đại

Chuyện xưa được lưu truyền lại rằng: Vua Bảo Đại nhà Nguyễn là vị vua mang phong cách rất “Tây” nên thường “vi hành” để xem xét đời sống của người dân.

Trong một lần “vi hành”, vua cảm thấy đói bụng và đã ghé vào một nhà bà lão xin cơm ăn. Bà lão tiếp đãi vua một dĩa cơm nóng với những thức ăn sẵn trong ngày hôm đó như dưa leo, rau cải, trứng, thịt… được thái sợi.

Vua Bảo Đại được bà lão mời ăn trên cái chõng tre với ánh sáng tù mù từ ngọn đèn dầu. Ánh đèn dầu leo lét khiến vua cảm thấy hơi lạnh sống lưng. Nhưng do vua đi đường mệt, đói bụng nên vua ăn rất ngon miệng, không nề hà chi cảnh xung quanh nữa. Có lẽ đây lại là món ăn ngon nhất mà vua được ăn vì vua ăn không sót lại tí nào. Ăn xong, khi ra về, vua mới thấy nhà bà lão nằm trên một bãi đất bị sụp xuống, giống dưới âm phủ. Vua cảm thấy sự việc này quả là không bình thường nên muốn mau chóng rời đi nhưng lòng vẫn luyến tiếc món ăn ngon miệng này.

Khi về cung, chán sơn hào hải vị, vua Bảo Đại lại nhớ đến món ăn lúc trước trong dân gian. Do đó, vua ra lệnh mở cuộc tuyển chọn các đầu bếp trong kinh thành để vào cung chế biến món ăn này cho vua. Và ông Tống Phước Kỷ, qua những gì vua miêu tả lại đã chế biến thành công món ăn kỳ lạ này và trở thành đầu bếp trưởng của vua.

Sau này, ông Tống Phước Kỷ được vua Bảo Đại cho rời hoàng cung nghỉ ngơi vì tuổi già sức yếu. Vì thế, ông quyết định mở một quán ăn bán độc nhất món ăn cung đình này để cho thiên hạ có dịp được thưởng thức. Bởi trước đó, món ăn độc đáo này vốn chỉ có vua Bảo Đại thưởng thức nhưng gốc gác của nó lại thuộc về... dân gian./.

Nguyễn Văn Toàn

Chia sẻ bài viết