Tiếng Việt | English

05/05/2021 - 09:39

Cần chấn chỉnh việc nuôi tôm thẻ chân trắng vùng Đồng Tháp Mười

Thời gian gần đây, tình trạng người dân tự phát nuôi tôm thẻ chân trắng trong vùng nước ngọt, vùng đất chuyên trồng lúa nước ở các địa phương vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Long An lại xuất hiện và đang có xu hướng tăng cao. Điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của địa phương.

Nông dân Đồng Tháp Mười bỏ lúa, đào ao nuôi tôm thẻ chân trắng

Nông dân Đồng Tháp Mười bỏ lúa, đào ao nuôi tôm thẻ chân trắng

Ồ ạt đào ao nuôi tôm thẻ chân trắng

Tại các huyện: Tân Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa và thị xã Kiến Tường có 122 hộ dân với diện tích 215ha nuôi tôm thẻ chân trắng trong vùng nước ngọt; trong đó, tập trung chủ yếu ở huyện Tân Hưng và Mộc Hóa (Tân Hưng 80,5ha, Mộc Hóa 115,7ha). Do nuôi trong vùng nước ngọt nên các hộ dân đều thực hiện khoan giếng tầng nông (độ sâu 30-40m) để lấy nước có độ mặn khoảng 4-9‰ hoặc dùng muối để nâng độ mặn (20 tấn/1.000m2) cho ao nuôi tôm. Đa số các hộ thả giống nuôi với mật độ cao, dao động từ 100-300 con/m2.

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Mộc Hóa - Nguyễn Thanh Nam cho biết: “Hiện nay, trình trạng này vẫn diễn ra rầm rộ, nhiều diện tích sản xuất lúa chuyển thành ao nuôi tôm thẻ chân trắng. Đến thời điểm này, nông dân trên địa bàn huyện có 68 hộ chuyển đổi từ đất sản xuất lúa sang nuôi tôm thẻ chân trắng với diện tích 115,7ha (có 16ha chuyển từ nuôi cá tra giống sang nuôi tôm thẻ chân trắng). Hầu hết diện tích đào ao nuôi tôm thẻ chân trắng đều do nông dân tự ý chuyển đổi, không nằm trong khu quy hoạch của địa phương.

Qua khảo sát của ngành chức năng, hoạt động nuôi tôm thẻ chân trắng bước đầu khá thuận lợi, đa số hộ nuôi có lợi nhuận khá cao. Chi phí đầu tư ban đầu như đào ao, trang thiết bị cho 1ha khoảng 1 tỉ đồng; giá thành sản xuất ra 1kg tôm thương phẩm khoảng 70.000 đồng/kg, giá bán 1kg tôm thương phẩm khoảng 120.000 đồng/kg; năng suất khoảng 15 tấn/ha/vụ nuôi. Bình quân lợi nhuận cho 1ha/vụ nuôi (3 tháng) khoảng 750 triệu đồng (chưa tính khấu hao chi phí đào ao, trang thiết bị đầu tư ban đầu). Mỗi năm nuôi 3 vụ/ha, lợi nhuận khoảng 2,25 tỉ đồng, trừ chi phí đầu tư đào ao, trang thiết bị ban đầu, người dân còn lợi nhuận khoảng 1,25 tỉ đồng/ha/năm. Do hoạt động nuôi thuận lợi, năng suất, lợi nhuận cao dẫn đến diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng có xu hướng tiếp tục tăng cao trong thời gian tới.

“Mặc dù nuôi tôm thẻ chân trắng mang lại thu nhập cao gấp nhiều lần so với trồng lúa nhưng địa phương không khuyến khích vì sợ người dân nuôi ồ ạt sẽ gặp khó về đầu ra. Chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân, không nên tự ý chuyển mục đích đất ruộng lúa thành ao nuôi tôm, sẽ ảnh hưởng đến công tác quy hoạch và nguy hại đến môi trường tự nhiên” - ông Nguyễn Thanh Nam thông tin.

Phó Giám đốc Sở NN&PTNT - Đinh Thị Phương Khanh, cho biết: Theo đánh giá của nhà khoa học, việc người dân đào ao, khoan giếng lấy nước mặn, bổ sung muối tạo môi trường nước mặn để nuôi tôm thẻ chân trắng tại các huyện, thị xã vùng Đồng Tháp Mười, bước đầu thuận lợi trong quá trình nuôi, một số hộ có lợi nhuận rất cao. Tuy nhiên, xét về tổng thể, việc đưa tôm thẻ chân trắng vào nuôi ở vùng nước ngọt hoàn toàn không phù hợp về đặc điểm sinh học, sự phát triển tự nhiên hài hòa của vùng; có những ảnh hưởng trước mắt cũng như lâu dài, tác động tiêu cực đến mạch nước ngầm do khai thác quá mức, thiếu nước vào mùa khô, gây sụt lún đất đai. Việc xả thải, thẩm thấu nước nhiễm mặn từ các ao nuôi ra môi trường bên ngoài gây hại cho vùng nước ngọt, ảnh hưởng đến sản xuất lúa và các cây trồng khác.

Bên cạnh đó, hạ tầng cho nuôi tôm không phù hợp, chi phí đầu tư trong quá trình nuôi cao, nguy cơ bùng phát dịch bệnh mọi thời điểm và khó kiểm soát dẫn đến rủi ro thiệt hại lớn cho người dân. Thực tế tại khu vực này đã xuất hiện một số dịch bệnh trên con tôm thẻ chân trắng như phân trắng, mềm vỏ,...

Vì vậy, Sở NN&PTNT đã kiến nghị UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo không cho phép nuôi tôm thẻ chân trắng trong vùng nước ngọt có sử dụng muối, khoan giếng lấy nước mặn để tạo môi trường nước lợ nuôi tôm. Đồng thời, đề nghị các địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân không tiếp tục đào ao mới, chuyển đổi từ ao nuôi cá tra giống sang nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn; tuyên truyền về những ảnh hưởng trước mắt cũng như lâu dài của việc nuôi tôm thẻ chân trắng trong vùng nước ngọt; việc sử dụng nước mặn từ giếng khoan, bổ sung thêm muối để nuôi tôm làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, hoạt động sản xuất nông nghiệp vùng nước ngọt. Tăng cường kiểm tra, xử lý kịp thời hoạt động chuyển đổi đất từ trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản không đúng theo quy định pháp luật.

Song song đó, Sở NN&PTNT cũng kiến nghị UBND tỉnh cho chủ trương thực hiện đề tài Đánh giá toàn diện và thiết lập bản đồ thổ nhưỡng vùng Đồng Tháp Mười, xác định loại đất của từng vùng phù hợp với từng cây trồng, vật nuôi; đề tài Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả và tác động của việc chuyển đổi cây trồng vật nuôi trên đất lúa thời gian qua và định hướng phát triển nông nghiệp bền vững; phối hợp các viện, trường nghiên cứu thử nghiệm nhiều đối tượng thủy sản nuôi nước ngọt có giá trị kinh tế cao để đa dạng hóa đối tượng nuôi chuyển giao cho người dân sản xuất.

Bài học từ nuôi cá tra giống

Sau thời gian đổ xô phá bỏ ruộng lúa để đào ao nuôi cá tra giống, đến nay, nhiều hộ dân ở vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh phải “ngậm trái đắng” khi giá cá xuống thấp, đầu ra khó khăn. Nhiều người nuôi thua lỗ phải bỏ ao khiến diện tích nuôi giảm mạnh, người dân đang phải trả giá nặng nề cho những hệ lụy do việc nuôi cá tra giống tràn lan dù đã được cảnh báo liên tục trước đó.

Huyện Tân Hưng được xem là xuất phát điểm của phong trào nuôi cá tra giống tự phát ở tỉnh vào khoảng cuối năm 2016. Thời điểm đó, dọc theo các tuyến kênh lớn (các xã như Hưng Hà, Hưng Điền B, Hưng Điền, Thạnh Hưng,…) dễ dàng nhìn thấy cảnh các máy xúc hoạt động liên tục, người dân đua nhau bỏ lúa để đào ao nuôi cá.

Từ Tân Hưng, phong trào đào ao nuôi cá tra giống trên đất lúa nhanh chóng lan rộng ra các địa phương khác trong vùng Đồng Tháp Mười như Tân Thạnh, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa. Diện tích nuôi mở rộng đến chóng mặt. Nếu như cuối năm 2016, toàn tỉnh chỉ có khoảng 300ha nuôi cá tra giống thì đến cuối năm 2017 mở rộng lên đến 1.300ha và đến cuối năm 2019, con số này đã đạt trên 3.500ha.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng trên là do giá ca tra giống thời điểm đó luôn ở mức cao, dao động ở mức 40.000-60.000 đồng/kg đối với cá cỡ 30 con/kg; từ 80.000-100.000 đồng/kg đối với cá cỡ 100 con/kg. Đồng thời, sản phẩm tiêu thụ khá dễ dàng do nhu cầu nuôi cá tra thương phẩm ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp tăng cao. Việc đầu tư nuôi ươm cá tra giống giúp nông dân thu lợi nhuận rất lớn, trung bình mỗi năm có thể nuôi trên 4 vụ, lợi nhuận đạt từ 700-800 triệu đồng/ha; cá biệt, có những hộ nuôi kinh nghiệm, chăm sóc tốt có thể thu lợi nhuận lên đến 2 tỉ đồng/ha. Do vậy, nhiều người sẵn sàng đầu tư đào ao nuôi cá với hy vọng thu lợi trong khoảng vài năm rồi sau đó có lỗ cũng không sao.

Dù lợi nhuận thu về khá lớn nhưng việc người dân liên lục mở rộng diện tích nuôi cá tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thời điểm đó, UBND tỉnh đã ra nhiều văn bản yêu cầu các sở, ngành, địa phương liên quan kiểm tra, chấn chỉnh tình trạng trên; các ngành chức năng và chính quyền địa phương đưa ra nhiều cảnh báo về hệ lụy của việc nuôi cá tự phát: Chất lượng con giống không bảo đảm; các diện tích nằm trong vùng quy hoạch trồng lúa nên hệ thống kênh, mương không phù hợp cho việc nuôi thủy sản; người nuôi xả nước trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm và lây lan mầm bệnh; diện tích nuôi phát triển nhanh dẫn đến nguy cơ cung vượt cầu,...

Thế nhưng, bất chấp những cảnh báo, khuyến cáo từ các cơ quan chức năng, diện tích nuôi cá tra giống ở vùng Đồng Tháp Mười liên tục được mở rộng. Tuy nhiên, việc bùng phát nuôi cá tra giống, tăng nhanh về diện tích và sản lượng đã làm dư thừa sản phẩm cá tra giống, mất cân đối cung - cầu, ảnh hưởng đến việc tiêu thụ và hiệu quả sản xuất. Từ cuối năm 2019 đến nay, giá cá tra giống luôn ở mức thấp, dao động từ 18.000-25.000 đồng/kg, phần lớn các hộ nuôi bị thua lỗ, rơi vào cảnh nợ nần.

Từng thu lợi nhuận hàng trăm triệu đồng mỗi vụ từ việc nuôi cá tra giống, anh Huỳnh Văn Minh (xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng) hiện phải lấp ao để quay trở lại trồng lúa do càng nuôi càng lỗ. Anh Minh cho biết: “Lợi nhuận cao nên ai cũng đổ xô đào ao nuôi cá nhưng làm nhiều quá nên giá cá xuống thấp, càng nuôi càng lỗ. Mỗi ao lỗ vài trăm triệu đồng là chuyện bình thường. Nhiều người đã lấp ao để chuyển sang trồng lúa nhưng cũng có người không còn đủ khả năng để lấp do kinh phí khá lớn”.

Thông tin từ Sở NN&PTNT, trước tình hình giá cả xuống thấp, người nuôi bị thua lỗ nên bỏ không nuôi, diện tích ao nuôi cá tra giống tại các huyện Đồng Tháp Mười đã giảm mạnh từ 3.500ha đến nay, diện tích thả nuôi chỉ còn khoảng 1.400ha. Phần diện tích còn lại thì có khoảng 1.100ha, người dân đã san lấp trở lại trồng lúa, sen hoặc cây ăn quả; một phần nhỏ diện tích người dân chuyển đổi sang nuôi trồng các loại thủy sản khác như cá lóc, cá rô, cá trê, tôm,…; gần 900ha ao đang bị bỏ trống do người dân không có kinh phí để san lấp ao như hiện trạng ban đầu hoặc vẫn còn hy vọng giá cá giống tăng cao trở lại sẽ tiếp tục nuôi.

Theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT - Đinh Thị Phương Khanh: Nhằm định hướng sản xuất hàng hóa tập trung, hiệu quả bền vững, quản lý tốt chất lượng cá tra giống, tạo đầu ra ổn định, Sở đang phối hợp UBND các huyện rà soát lại các vùng nuôi cá tra giống theo hướng tập trung, quy mô sản xuất hàng hóa lớn, ổn định lâu dài, đáp ứng tiêu chuẩn và điều kiện theo quy định, từng bước xây dựng thương hiệu về chất lượng cá tra giống của tỉnh. Tại các vùng này sẽ tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn các quy trình giải pháp kỹ thuật tiên tiến, mật độ thả nuôi phù hợp, sử dụng thuốc, hóa chất đúng theo quy định,… để người nuôi có đủ thông tin và chủ động trong quá trình nuôi. Đồng thời, hỗ trợ xây dựng các mô hình hợp tác sản xuất, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; tổ chức liên kết sản xuất - tiêu thụ cá tra giống giữa người dân với các doanh nghiệp nuôi cá tra thương phẩm để tạo đầu ra ổn định cho con giống./.

Văn Đát

Chia sẻ bài viết