Tiếng Việt | English

25/09/2025 - 09:42

Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục vùng biên giới: Con đường đúng nhất để nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực: Dạy tiếng dân tộc thiểu số trong trường học (Bài 4)

Trước khi sáp nhập, Long An và Tây Ninh mỗi tỉnh đều có 20 xã biên giới. Tỉnh Long An (cũ) có 20 xã biên giới thuộc 6 huyện, thị xã: Đức Huệ, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng và thị xã Kiến Tường. Tỉnh Tây Ninh (cũ) có 20 xã biên giới thuộc các huyện: Trảng Bàng, Châu Thành, Tân Biên, Tân Châu và Bến Cầu. Mấy chục năm qua, sự nghiệp giáo dục ở vùng sâu, vùng xa của Long An và Tây Ninh được đầu tư cả về cơ sở vật chất và con người nhưng khó khăn, hạn chế chưa phải đã hết. Năm nay, tròn 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục và 50 năm ngày thống nhất 2 miền Nam Bắc (trong đó có hợp nhất về giáo dục sau năm 1975). Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn “ai cũng được học hành”. Xuất phát từ những điều nêu trên, nhóm phóng viên Báo và phát thanh, truyền hình Tây Ninh thực hiện loạt bài phát triển sự nghiệp giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số - con đường đúng nhất, ngắn nhất, hiệu quả nhất để nâng cao mặt bằng dân trí và phát triển nguồn nhân lực.

Bài 4: Dạy tiếng dân tộc thiểu số trong trường học

“Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” - Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII nhấn mạnh chính sách phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số.

Văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta vừa thống nhất, vừa đa dạng. Tính thống nhất biểu hiện ở quá trình đoàn kết đấu tranh chống ngoại xâm, phát triển kinh tế, mở mang bờ cõi, ở ý thức quốc gia và trong lối sống, cách ứng xử, đặc biệt là tinh thần yêu nước của các dân tộc Việt Nam mà nguyên nhân sâu xa, trực tiếp tạo nên tính thống nhất của văn hóa Việt Nam chính là ở bản lĩnh, bản sắc văn hóa dân tộc - quốc gia Việt Nam. Bộ GD&ĐT vừa cho biết, năm học mới, sẽ dạy nhiều ngôn ngữ trong nhà trường, tùy theo đặc điểm dân cư.

Học sinh con em đồng bào dân tộc Khmer trong giờ học tiếng mẹ đẻ

“Sáng Tiếng Việt, chiều Tiếng Chăm”

Tiếp chuyện với khách cùng mẹ, A Mi Ná - giáo viên (GV) Trường Tiểu học Tân Hưng A, xã Tân Hưng, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh (cũ), nói rằng, mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo có những nét văn hóa đặc sắc riêng. Đối với một dân tộc, ngôn ngữ và chữ viết rất quan trọng. Ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết chính là văn hóa.

“Người Chăm sinh ra là đã biết nói tiếng mẹ đẻ rồi. Bất cứ nơi đâu trên đất nước Việt Nam này, người Chăm sinh ra là biết tiếng mẹ đẻ. Ở trường, các em người dân tộc thiểu số học tiếng Việt, nói tiếng phổ thông, về nhà, các em lại nói tiếng đồng bào. Như vậy, các em vừa biết nói tiếng phổ thông, học tập bình thường lại vừa giữ được bản sắc văn hóa của riêng mình. Ở trường chúng tôi, buổi sáng các em học tiếng Việt, buổi chiều các em học tiếng Chăm. Tôi tự hào vì các em người Chăm chẳng những biết được chữ Việt, còn biết nói, viết được chữ Chăm của mình. Nhưng tôi đang trăn trở chính là chương trình song ngữ này sử dụng nhiều năm rồi, Chương trình Giáo dục phổ thông đã thay đổi nhưng chương trình song ngữ tiếng Chăm thì vẫn chưa thay đổi” - cô giáo A Mi Ná nói và đề xuất sớm có nghiên cứu, biên soạn chương trình song ngữ cho tương thích với Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

Cũng là GV người dân tộc Chăm, thầy Chàm Ên - GV Trường Tiểu học Tân Hưng A, cho biết, người Chăm một ngày đi hành lễ 5 lần, trẻ em 10 tuổi trở lên phải đi hành lễ. Trường hợp bận công việc, đang đi làm trong cơ quan, nhà máy, xí nghiệp có thể làm lễ sau. Đối với người Chăm, cho dù có làm việc ở bất kỳ cơ quan nào thì cũng phải ăn mặc trang phục nhằm giữ gìn bản sắc của người Chăm.

“Hơn 30 năm làm công tác giảng dạy song ngữ tiếng Chăm và tiếng Việt, giúp các em đọc, hiểu cả 2 ngôn ngữ, giúp gìn giữ chữ viết để bảo tồn văn hóa của dân tộc mình, chúng tôi duy trì truyền thống, trong giáo luật của đạo Hồi như thế nào thì làm đúng y như vậy, không được làm sai, người dân ở đây chấp hành rất tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ xưa đến giờ, chúng tôi được tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, không ai bắt ép chúng tôi cả. Chúng tôi được tôn trọng. Các hộ nghèo được chính quyền địa phương xây nhà Đại đoàn kết. Thánh đường khang trang, đồng bào chúng tôi vui mừng, phấn khởi” - vị trí thức người dân tộc thiểu số thông tin và bình luận.

Bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết

Theo kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), chương trình tiếng Khmer cấp tiểu học và THCS là chương trình dạy học tiếng dân tộc thiểu số dành cho môn học tự chọn, áp dụng đối với học sinh (HS) dân tộc Khmer ở Việt Nam có nhu cầu học tiếng Khmer. Tại Tây Ninh (cũ) tiếng Khmer hiện được giảng dạy tại 3 trường tiểu học gồm: La Văn Cầu (TP.Tây Ninh cũ), Hòa Đông (huyện Tân Biên cũ) và Tân Đông (huyện Tân Châu cũ).

Bà Phạm Thị Bình - Hiệu trưởng Trường Tiểu học La Văn Cầu, thông tin, năm học 2024-2025, trường có 200 HS, trong đó có 105 HS là người dân tộc Khmer. Do đó, việc đưa tiếng Khmer vào chương trình học, từ lớp 1 đến lớp 5, theo cô Bình là hoàn toàn đúng với nguyện vọng của HS, được học tiếng mẹ đẻ góp phần lưu giữ bản sắc, văn hóa của người Khmer. Trước đây, HS học tiếng Khmer 4 tiết/tuần nhưng từ khi nhà trường triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, các em HS từ lớp 1 đến lớp 5 chỉ học 2 tiết/tuần, riêng HS lớp 3 trở lên phải học thêm ngoại ngữ tiếng Anh, theo chương trình chung. Theo cô Bình, thời lượng học như vậy là hoàn toàn phù hợp, không cần phải tăng số tiết dạy và học.

Thầy giáo người Khmer Cao Văn An trong giờ dạy tiếng Khmer cho học sinh Trường Tiểu học La Văn Cầu (TP.Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh cũ)

Trường Tiểu học La Văn Cầu hiện có 1 GV đứng lớp giảng dạy tiếng Khmer cho HS, đó là thầy Cao Văn An, đã có hơn 14 năm đứng lớp. “Tôi thấy tài liệu của Bộ GD&ĐT ban hành phù hợp với các em HS dân tộc Khmer. Sau khi hoàn thành xong chương trình, con em có thể đọc, viết thành thạo ngôn ngữ Khmer. Nội dung sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 3 rất phù hợp, có phần học âm - vần, ghép phụ âm với nguyên âm. Sách lớp 4 biên soạn phần nội dung gồm tập đọc, chính tả, kể chuyện,... những câu chuyện trong sách được biên soạn hợp lý, hình ảnh minh họa sinh động” - thầy An nhìn nhận.

“Dạy tiếng dân tộc thiểu số trong trường học nói chung và tiếng Khmer nói riêng nhằm bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết, văn hóa của đồng bào dân tộc mình. Chủ trương này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, giúp HS có thể gìn giữ ngôn ngữ, chữ viết người Khmer. Đó cũng chính là niềm vui, hạnh phúc của người GV khi được dạy cho các em nắn nót từng nét chữ đầu đời, chỉnh từng âm tiết trong cách phát âm, được nghe các em đồng thanh đọc bài bằng ngôn ngữ dân tộc mình” - thầy giáo An nói.

Em Cao Thị Ngọc Trang - HS lớp 3B, Trường Tiểu học La Văn Cầu, hào hứng nói: “Khi học tiếng    Khmer tại trường, em được thỏa sức nói tiếng mẹ đẻ của mình. Em thích nhất những dịp lễ, tết của dân tộc như Chol Chnam Thmay, Ok Om Bok, Sen Dolta. Hiện tại, em học thêm tiếng Anh, vì đây là ngôn ngữ bắt buộc. Để sắp xếp thời gian học cùng lúc nhiều ngôn ngữ, mỗi ngày em sẽ rèn luyện một ít, ở nhà em trò chuyện với ba mẹ bằng tiếng Khmer, đến trường em giao tiếp với các bạn bằng tiếng Việt, cuối tuần ôn luyện thêm tiếng Anh để có thể tiếp thu cùng lúc nhiều ngôn ngữ khác nhau”.

Chủ trương dạy và học tiếng Khmer ở cấp tiểu học và cấp THCS nhằm giúp HS hình thành và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng Khmer, mở rộng hiểu biết về văn hóa của người Khmer Nam Bộ, bồi dưỡng tinh thần đoàn kết dân tộc, ý thức công dân Việt Nam, góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa của người Khmer Nam Bộ.

Trong số 54 dân tộc Việt Nam, có 16 dân tộc dân số dưới 10.000 người, thậm chí 5 dân tộc chỉ có số dân dưới 1.000 người, đây là những dân tộc khó có khả năng và điều kiện tự bảo vệ và phát huy giá tri di sản văn hóa của dân tộc mình. Thách thức đầu tiên phải kể đến là khả năng đánh mất ngôn ngữ truyền thống, linh hồn của văn hóa dân tộc, cũng là phương tiện để truyền tải, trao truyền nghệ thuật, phong tục, tập quán của các tộc người.

Trong dòng chảy toàn cầu hóa, bảo tồn văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số nhằm lưu giữ tính đa dạng của văn hóa Việt Nam, làm phong phú kho tàng văn hóa thế giới, giúp tăng cường khai thác nguồn tài nguyên văn hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Ngôn ngữ là điều kiện cần và đủ để làm được điều đó./.

(còn tiếp)

Việt Đông - Ngọc Thạch

Bài cuối: Sáp nhập trường quy mô nhỏ

Chia sẻ bài viết