Bộ luật Lao động sửa đổi có nhiều điểm mới so với Bộ luật trước đây (Ảnh minh họa)
1. Mở rộng phạm vi và đối tượng điều chỉnh
Nếu như BLLĐ năm 2012 quy định tiêu chuẩn lao động; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động,... trong quan hệ lao động và các quan hệ khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động thì BLLĐ năm 2019 mở rộng thêm đối tượng là người làm việc không có quan hệ lao động cùng một số tiêu chuẩn riêng.
2. Tăng tuổi nghỉ hưu lên 62 tuổi đối với nam, 60 tuổi đối với nữ
3. Quốc khánh được nghỉ 2 ngày
4. Không còn hợp đồng lao động theo mùa vụ
Điều 20 BLLĐ năm 2019 đã bỏ nội dung về hợp đồng mùa vụ hoặc theo một công việc có thời hạn dưới 12 tháng, thay vào đó chỉ còn 2 loại hợp đồng: Hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động xác định thời hạn. Quy định này được đánh giá là tiến bộ lớn của pháp luật về lao động nhằm bảo vệ người lao động, hạn chế tình trạng người sử dụng lao động “lách luật”, không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động bằng cách ký các loại hợp đồng mùa vụ, dịch vụ,...
5. Ghi nhận hình thức hợp đồng lao động điện tử
Xuất phát từ thực tiễn, với sự phát triển của khoa học - công nghệ, việc giao kết hợp đồng lao động không đơn thuần chỉ bằng văn bản, lời nói hay hành vi. Vì vậy, Điều 14 BLLĐ này ghi nhận thêm hình thức giao kết hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản.
Ngoài ra, với những trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì vẫn được coi là hợp đồng lao động.
Bộ luật Lao động mới thêm nhiều quyền lợi cho người lao động (Ảnh minh họa)
6. Người sử dụng lao động không được ký hợp đồng lao động để trừ nợ
Theo BLLĐ năm 2019, một trong những hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động là “Buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động”.
Đây là quy định mới được bổ sung tại khoản 3, Điều 17 BLLĐ năm 2019 so với BLLĐ năm 2012. Theo đó, từ ngày 01/01/2021, người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động ký kết hợp đồng lao động với mình để trả số tiền người lao động đang vay, hay nói cách khác là để trừ nợ.
7. Nới trần làm thêm giờ theo tháng từ 30 giờ/tháng lên 40 giờ/tháng và quy định cụ thể hơn đối với các trường hợp được làm thêm giờ đến 300 giờ/năm
Điều khác biệt duy nhất về thời gian làm thêm giờ quy định tại BLLĐ năm 2019 với BLLĐ năm 2012 ở điểm:
Số giờ làm thêm trong tháng tăng lên 40 giờ thay vì 30 giờ và cụ thể hơn các trường hợp được làm thêm tới 300 giờ/năm như sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm là hàng dệt, may, da, giày, linh kiện điện, điện tử, chế biến nông, lâm, thủy sản; cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước,…
8. Có thể ủy quyền cho người khác nhận lương
Khoản 1, Điều 94 BLLĐ năm 2019 quy định: Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.
Như vậy, Bộ luật mới đã quy định thêm trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.
Trước đó, nội dung này không được quy định tại BLLĐ năm 2012. Việc cho phép người lao động ủy quyền cho người khác nhận lương được cho là hợp lý, nhất là trong trường hợp người lao động bị ốm đau, tai nạn không thể trực tiếp nhận lương.
9. Thêm trường hợp nghỉ việc riêng hưởng nguyên lương
Ngoài các trường hợp nghỉ việc riêng hưởng nguyên lương như trước đây (bản thân kết hôn: Nghỉ 3 ngày; con kết hôn: Nghỉ 1 ngày; bố/mẹ đẻ, bố/mẹ vợ hoặc bố/mẹ chồng chết: Nghỉ 3 ngày,...) thì Điều 115 BLLĐ mới đã bổ sung thêm trường hợp cha nuôi, mẹ nuôi chết. Lúc này, người lao động cũng được nghỉ 3 ngày như trường hợp bố đẻ, mẹ đẻ hay bố/mẹ chồng, bố/mẹ vợ chết.
10. Người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do
Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập từ việc áp dụng các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động, Điều 35 BLLĐ năm 2019 cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do mà chỉ cần báo trước 30 ngày với hợp đồng xác định thời hạn và 45 ngày với hợp đồng không xác định thời hạn. Thậm chí, trong một số trường hợp, người lao động còn được đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước:
Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận.
Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn; bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động.
Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc. Đủ tuổi nghỉ hưu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
Đồng thời, người lao động cũng được quyền yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của mình khi chấm dứt hợp đồng lao động; các chi phí của việc cung cấp do người sử dụng lao động chi trả,...
11. Khi trả lương, doanh nghiệp phải gửi bảng kê chi tiết cho người lao động
Nhằm minh bạch tiền lương của người lao động, Bộ luật này yêu cầu mỗi lần trả lương, người sử dụng lao động phải thông báo bảng kê trả lương người lao động, trong đó ghi rõ: Tiền lương; tiền lương làm thêm giờ; Tiền lương làm việc vào ban đêm; nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có),…
12. Người lao động có thể được “thưởng” không chỉ bằng tiền:
BLLĐ năm 2019 quy định về “thưởng” thay vì “tiền thưởng” như Bộ luật cũ. Theo đó khái niệm thưởng cho người lao động cũng được mở rộng ra, có thể là tiền hoặc tài sản hoặc bằng các hình thức khác căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động.
13. Thời gian nghỉ giữa giờ của người lao động không được tính vào giờ làm việc
14. Cấm ép người lao động dùng lương để mua hàng hóa, dịch vụ của công ty
Bộ luật mới quy định người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động.
Đặc biệt, không được ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.
15. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào tiền lương của doanh nghiệp
Điều 93 BLLĐ năm 2019 quy định, doanh nghiệp được chủ động trong việc xây dựng thang lương, bảng lương và định mức lao động trên cơ sở thương lượng, thoả thuận với người lao động.
Tiền lương trả cho người lao động là số tiền để thực hiện công việc, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Mức lương theo công việc hoặc chức danh không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.
16. Sử dụng dưới 10 lao động cũng phải có nội quy lao động
Điều 118 BLLĐ năm 2019 quy định, người sử dụng lao động phải ban hành nội quy lao động. Trong trường hợp sử dụng từ 10 người lao động trở lên thì nội quy lao động phải bằng văn bản.
17. Đối thoại định kỳ tại nơi làm việc 1 năm/lần
Thay vì tổ chức định kỳ 3 tháng/lần như trước đây thì khoản 1, Điều 63 BLLĐ sửa đổi đã nâng thời gian tổ chức đối thoại định kỳ tại nơi làm việc lên 1 năm/lần; đồng thời, bổ sung thêm một số trường hợp người sử dụng lao động phải tổ chức đối thoại như vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc; khi xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động,...
18. Sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý cuộc đình công không đúng trình tự, thủ tục cũng như sửa đổi, bổ sung các trường hợp đình công bất hợp pháp,…
Thanh Nga (lược ghi)