
Phóng viên chiến trường Phạm Kiệt tại sân bay Lộc Ninh năm 1973
Đi chiến đấu năm 15 tuổi
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phạm Kiệt sinh năm 1950 ở vùng quê nghèo thuộc xã Phước Vân, huyện Cần Đước. Năm 12 tuổi, khi học hết tiểu học, do không có giấy khai sinh nên con đường học tập của anh đành khép lại. Nghỉ học, anh ở nhà dệt chiếu phụ mẹ. Rồi cha anh hy sinh ngay tại quê nhà. Anh xin mẹ đi chiến đấu giết giặc để trả thù cho cha, mẹ anh đồng ý nhưng phải đợi đến năm anh 17 tuổi. Không thể chờ đợi, anh trốn mẹ lên đường đi chiến đấu khi mới 15 tuổi.
Ban đầu, anh ở Huyện đội Cần Đước, đến khi thấy mấy anh trên Tỉnh đội về mang súng “bá đỏ” bóng loáng, anh quá mê nên xin về Tỉnh đội, rồi được chuyển lên “Miền” ở Chiến khu D.
Vì anh còn trẻ nên cấp trên không cho đi trực tiếp cầm súng mà chỉ phục vụ chiến đấu ở đội “vận tải”. “Nói “vận tải” cho oai chứ thực ra là gùi bằng vai, dùng sức trẻ để tải lương, tải đạn...” - anh Phạm Kiệt nhớ lại.
Một thời gian sau, anh được chuyển sang “quân giới”, công việc cụ thể là giữ các kho vũ khí trong rừng. Thời ấy, ngoài con đường Trường Sơn, vũ khí từ miền Bắc chi viện vào miền Nam còn theo đường biển, nhiều lúc đường biển bị đối phương phong tỏa, các “chuyến tàu không số” phải chạy sang tận cảng Sihanoukville (Campuchia), cán bộ ta đóng vai “tư sản” mua hàng rồi chuyển vũ khí đến khu vực biên giới giao cho quân giải phóng. Có lúc chàng trai trẻ Phạm Kiệt phải giữ cùng lúc hơn 30 kho vũ khí (mỗi kho 5 tấn), ban đầu trên mặt đất, sau bị máy bay phát hiện phải đào hầm làm kho.
Nhiếp ảnh đã chọn anh
Năm 1972, Phòng Chính trị thuộc Cục Hậu cần trên R thiếu phóng viên quay phim, chụp ảnh, Phạm Kiệt được đưa từ “quân giới” sang Phòng Chính trị, vừa học, vừa làm nghề chụp ảnh, quay phim. Lần đầu tiên, anh ra trận với tư cách phóng viên chiến trường và tham gia ngay vào Chiến dịch Nguyễn Huệ, chính quyền Sài Gòn gọi là “Mùa hè đỏ lửa”. Với chiếc máy ảnh và máy quay phim, anh cùng các chiến sĩ giải phóng băng qua lửa đạn ở nhiều cuộc giao tranh. Năm 1974, anh được điều sang Cục Chính trị chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Ngày 30/4/1975, đơn vị của anh còn ở bên hồ Dầu Tiếng, sang ngày 01/5/1975 mới cùng đoàn quân quản về tiếp quản Sài Gòn. Anh cùng đồng đội vào tiếp quản Trung tâm Điện ảnh thành phố, “ăn ngủ” trên một “núi” giấy ảnh, phim ảnh và các máy móc, thiết bị ngành ảnh, là những thứ rất quý hiếm sau ngày giải phóng. Các anh đã bảo quản trọn vẹn để sau đó bàn giao cho ngành chức năng. Anh nhớ lại, sau mấy ngày tiếp quản Sài Gòn, anh cùng một đồng đội vào chơi sân bay Tân Sơn Nhất, thấy xe gắn máy, xe hơi còn vứt ngổn ngang (do những người ra đi nước ngoài bỏ lại). Anh lựa một chiếc Honda 67 còn thật tốt, rồi lấy theo mấy can xăng máy bay, cứ vậy mà rong ruổi khắp Sài Gòn, nhờ đó mà anh sớm rành đường sá ở đây. Một năm sau, anh xin về công tác ở quê nhà Long An.

Nhiếp ảnh Phạm Kiệt (thứ 2, trái qua) tại Đại hội Chi hội Nhiếp ảnh Việt Nam tỉnh Long An, nhiệm kỳ 2024-2029
Anh Phạm Kiệt từ Sài Gòn về nhận công tác ở Ty Thông tin - Văn hóa Long An, bộ phận nhiếp ảnh, nơi đã có các anh Út Lực, Phùng Tấn Dũng. Về sau có thêm các anh Cao Hồng Hải, Tấn Sĩ,... Ty Thông tin - Văn hóa lập Công ty Dịch vụ nhiếp ảnh do Phạm Kiệt làm Giám đốc, địa bàn hoạt động chính là Phòng Đọc sách (Trung tâm Bưu chính - Viễn thông hiện nay) - nơi mà mỗi chiều, nhất là vào cuối tuần, người dân thị xã Tân An tập trung vui chơi rất đông.
Năm 1984, anh chuyển sang Hội Văn nghệ, tham gia Ban Chấp hành (do nhà văn Khương Minh Ngọc làm Chủ tịch). Năm 1990, tại Đại hội lần thứ II, anh Phạm Kiệt được bầu vào chức vụ Chủ tịch Hội Văn nghệ Long An.
Nhớ một thời phóng viên chiến trường
Đối với anh Phạm Kiệt, quãng đời đẹp nhất là giai đoạn làm phóng viên chiến trường, dù rất nguy hiểm, gian khổ.
Tác phẩm đầu tiên để lại dấu ấn trong cuộc đời nhiếp ảnh của anh cũng ra đời trong giai đoạn này. Đó là lần anh phải mạo hiểm giả gái để qua mắt đối phương đột nhập vào “ấp chiến lược” Bàu Tràm (Tây Ninh, sát căn cứ Đồng Dù) để chụp ảnh cảnh người dân thu mua lương thực chuyển ra vùng giải phóng. Khi vào thì trót lọt nhưng vào tác nghiệp xong thì kẹt không ra được, đến 4 giờ sáng, phải bò sát bờ rào căn cứ Đồng Dù để về điểm tập kết. Địch phát hiện nổ súng, trong đoàn có người trúng đạn nhưng anh trở ra an toàn. Nhờ có chuyến đi này mà tác phẩm Thu mua lương thực đưa ra vùng giải phóng của anh lần đầu tiên được đăng trên Báo Quân Đội Nhân Dân.

Tác phẩm Nhớ ơn liệt sĩ
Một lần khác, anh về công tác ở “đất thép” Củ Chi, ghé vào nhà dân nghỉ ngơi. Bỗng thấy máy bay trinh sát bay qua lại trên trời, định xuống hầm trú ẩn thì chủ nhà kéo anh đi ngay vào rừng vì “đó là dấu hiệu chúng sẽ hủy diệt nơi này”.
Quả thật, sau những trận “mưa” bom, pháo, khi mọi người trở về thì nhà cửa (kể cả hầm trú ẩn) đều đã bình địa. Nhưng sáng hôm sau, khi anh thức giấc, người dân vẫn tưới rau, cho gà ăn một cách bình thường, như chưa có chuyện gì xảy ra.
“Người dân Củ Chi không chỉ kiên cường, dũng cảm mà họ còn có kỹ năng, kiến thức trận mạc không thua kém gì bộ đội chính quy” - anh Phạm Kiệt nói.
Ngày trao trả tù binh sau Hiệp định Paris, anh có mặt ở sân bay Lộc Ninh để tác nghiệp. Trong khi ta đã sẵn sàng cho tù binh đối phương lên máy bay nhưng đợi mãi mà không thấy máy bay đưa tù binh của ta từ Phú Quốc đến. Thì ra tù binh của ta kiên quyết không lên máy bay vì sợ bị đưa đi thủ tiêu. Một đoàn cán bộ của ta phải cấp tốc bay ra Phú Quốc để giải quyết.

Tác phẩm Tiềm năng Đồng Tháp Mười
Thời gian không dài được thoải mái sáng tạo với tư cách một nghệ sĩ nhiếp ảnh (về sau khi làm quản lý, anh ít có thời gian sáng tác), anh Phạm Kiệt đã để lại không ít tác phẩm có giá trị. Ngoài tác phẩm Thu mua lương thực đưa ra vùng giải phóng nói trên, anh cũng ưng ý một số tác phẩm khác như Biên giới tình em (cô gái Chăm - Giải thưởng Quốc gia), Nhớ ơn liệt sĩ (Giải II ảnh nghệ thuật Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam), Tiềm năng Đồng Tháp Mười (Giải II ảnh nghệ thuật Đồng bằng sông Cửu Long),...
Cách đây 6 năm, anh Phạm Kiệt phát hiện mình bị suy thận giai đoạn cuối, mỗi tuần phải chạy thận 3 lần. Nhờ tuân thủ nghiêm ngặt phác đồ điều trị của bác sĩ, sống chuẩn mực, lạc quan, nay anh đã khỏi bệnh, dừng hẳn việc chạy thận. Năm nay anh đã 75 tuổi, “thuốc kiêng rượu cữ” đã lâu, sống lạc quan, yêu đời bên con cháu ở phường 6, TP.Tân An, bên dòng Vàm Cỏ Tây./.
Nguyễn Phấn Đấu