Tiếng Việt | English

27/03/2022 - 16:33

Chủ tịch Hội đột quỵ TP.HCM: Không cần tầm soát đột quỵ thường quy nếu mắc COVID-19 nhẹ

Nếu bệnh nhân mắc COVID-19 nhẹ, không có các yếu tố nguy cơ đột quỵ kèm theo thì nguy cơ đột quỵ sẽ rất thấp, do vậy không cần thiết phải tầm soát đột quỵ một cách thường quy.

Bệnh nhân lớn tuổi điều trị hậu COVID-19 tại Trung tâm phục hồi chức năng vật lý trị liệu, tâm lý trị liệu sau nhiễm COVID-19 thuộc Bệnh viện Lê Văn Thịnh (TP.HCM) - Ảnh: XUÂN MAI

Đây là khuyến cáo của PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng - chủ tịch Hội Đột quỵ TP.HCM - khi gần đây có nhiều thắc mắc có nên tầm soát đột quỵ sau nhiễm COVID-19.

Đối với bệnh nhân có yếu tố nguy cơ khác kèm theo, PGS Thắng cho rằng việc tầm soát đột quỵ cũng nên tập trung vào mục tiêu cần hướng đến trong việc kiểm soát chặt các yếu tố nguy cơ. Không nên lạm dụng các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh nếu như bệnh nhân không có triệu chứng đột quỵ.

"Hầu hết mọi người quá hoảng loạn vì đại dịch nên đừng bắt người bệnh phải chịu đựng thêm nữa các gói tầm soát hậu COVID-19", PGS Thắng nêu ý kiến.

Trước câu hỏi COVID-19 có phải là yếu tố nguy cơ gây đột quỵ, PGS Thắng cho hay dựa trên những chứng cứ gần đây, điều này hoàn toàn đúng.

Cụ thể, khá nhiều nghiên cứu công bố tỉ lệ bệnh nhân mắc đột quỵ trong thời gian đang nhiễm COVID-19 dao động 0,9 - 2,7% (trung bình 1,2%). So với nhiễm virus khác, khả năng mắc đột quỵ liên quan đến nhiễm COVID-19 cao gấp 7 lần.

Một nghiên cứu cũng được công bố tại Hội nghị đột quỵ Hoa Kỳ 2022 cho thấy nguy cơ mắc đột quỵ cao nhất trong khoảng 3 ngày đầu tiên sau khi được chẩn đoán nhiễm COVID-19 (tăng gấp 10 lần).

Nguy cơ mắc đột quỵ giảm dần theo các khoảng thời gian 4-7 ngày, 8-14 ngày và 15-28 ngày. Sau thời gian 1 năm, dù thấp hơn rõ rệt, nguy cơ mắc đột quỵ vẫn cao hơn ở bệnh nhân có tiền sử nhiễm COVID-19 trước đó.

Về nguyên nhân tại sao nhiễm COVID-19 có thể gây đột quỵ, PGS Thắng cho hay có 3 cơ chế chính: tăng phản ứng viêm, dẫn đến viêm các mạch máu; gây ra tình trạng tăng đông, dẫn đến sự hình thành huyết khối trong hệ động mạch, hệ tĩnh mạch và các cơ quan; và thuyên tắc huyết khối ngược dòng, đặc biệt trên bệnh nhân còn tồn tại lỗ bầu dục PFO (lỗ thông thường giữa hai buồng tim).

Một số ít tài liệu gợi ý khả năng nhiễm COVID-19 có thể gây co mạch, tăng huyết áp dẫn đến xuất huyết não.

PGS Thắng cho biết thêm, mặc dù cơ chế gây đột quỵ của COVID-19 liên quan rất nhiều đến việc hình thành huyết khối gây thuyên tắc mạch máu, tuy nhiên các thử nghiệm lâm sàng mới công bố gần đây đều không chứng minh được lợi ích của việc sử dụng thường quy thuốc kháng đông hoặc kháng kết tập tiểu cầu trên bệnh nhân nhiễm COVID-19 nhằm mục đích dự phòng đột quỵ tiên phát.

Tuy vậy, trong giai đoạn cấp, trên những bệnh nhân đột quỵ mức độ nặng (nhồi máu não diện rộng), việc sử dụng kháng đông hoặc kháng kết tập tiểu cầu cần phải cân nhắc đến nguy cơ chuyển dạng xuất huyết trong ổ nhồi máu.

Với những bệnh sau nhiễm COVID-19 được xem là nhóm nguy cơ cao bị đột quỵ khi đang đồng thời có nhiều yếu tố nguy cơ khác như tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa lipid, rung nhĩ, hút thuốc, béo phì…

Cho đến nay, việc phòng ngừa đột quỵ tiên phát trên bệnh nhân sau nhiễm COVID-19 chỉ bao gồm việc kiểm soát chặt các yếu tố nguy cơ. Chưa có bằng chứng cho thấy hiệu quả của thuốc kháng đông, hoặc kháng kết tập tiểu cầu trong phòng ngừa đột quỵ tiên phát.

Còn với các bệnh nhân đã bị đột quỵ và đã nhiễm COVID-19, việc sử dụng kháng đông hoặc kháng kết tập tiểu cầu nên được duy trì. Việc lựa chọn sẽ tùy thuộc vào cơ chế đột quỵ trước đó, không nên chuyển sang thuốc kháng đông chỉ vì sau nhiễm COVID-19.

Theo TTO

 

Chia sẻ bài viết