Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia xã hội hóa ngành nước
Theo đó, Luật quy định các chính sách để khuyến khích sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội đối với tất cả hoạt động liên quan đến tài nguyên nước, từ quản lý, điều hòa, phân phối đến bảo vệ, phát triển và khai thác, sử dụng tài nguyên nước theo từng cấp độ từ khuyến khích, đến hỗ trợ đầu tư, miễn, giảm thực hiện nghĩa vụ liên quan tùy theo lĩnh vực và phạm vi tham gia, đóng góp.
Trong đó, có chính sách ưu đãi các dự án đầu tư xây dựng các công trình điều tiết, tích trữ nước, khai thác nước cấp cho sinh hoạt, sản xuất của người dân ở các vùng khan hiếm nước ngọt, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn, địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn; tạo điều kiện tiếp cận nước sinh hoạt cho người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và các đối tượng dễ bị tổn thương khác; ưu đãi, hỗ trợ hoặc miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước khi thực hiện các hoạt động như sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước; thu gom, sử dụng nước mưa; xử lý nước biển thành nước ngọt; xây dựng, vận hành công trình bổ sung nhân tạo nước dưới đất.
Bên cạnh đó, Luật khuyến khích địa phương, tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng hoặc đóng góp kinh phí xây dựng, vận hành hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định để vận hành hồ chứa, liên hồ chứa bảo đảm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; khuyến khích tổ chức, cá nhân nghiên cứu giải pháp và thực hiện việc bổ sung nhân tạo nước dưới đất; tham gia đầu tư, xây dựng, vận hành công trình quan trắc tài nguyên nước và cung cấp số liệu quan trắc tài nguyên nước; tham gia đầu tư xây dựng công trình tích trữ nước, tìm kiếm nguồn nước để chủ động ứng phó với tình trạng khô hạn, thiếu nước.
Đồng thời, Luật quy định các chính sách miễn, giảm thuế, phí để khuyến khích các hoạt động phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; xây dựng các công trình phát triển, tích, trữ nước, điều tiết nguồn nước theo hình thức xã hội hóa.
Trong bảo đảm an ninh nguồn nước, Luật Tài nguyên nước quy định việc tận dụng các khu vực khai thác khoáng sản, đất, vật liệu xây dựng sau khi dùng khai thác tạo thành hồ để điều hòa, tích trữ, tạo cảnh quan sinh thái, phòng, chống ngập lụt, cấp nước dự phòng
Bảo đảm an ninh nguồn nước
Luật Tài nguyên nước quy định các chính sách liên quan đến an ninh nguồn nước xuyên suốt trong các chương, điều của Luật. Trong đó, việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước, Luật quy định việc xây dựng kịch bản nguồn nước; quy định hoạt động điều hòa, phân phối tài nguyên nước thông qua việc điều tiết chế độ vận hành các hồ chứa, đập dâng, công trình khai thác, sử dụng nước và điều phối hoạt động khai thác, sử dụng nước trên lưu vực sông, hướng tới việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước bằng hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực; lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước của các ngành sử dụng nước phù hợp với điều kiện nguồn nước.
Luật quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan như Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng, thực hiện phương án điều hòa, phân phối tài nguyên nước và các biện pháp ứng phó, khắc phục tình trạng thiếu nước.
Đối với hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước, Luật bổ sung quy định về ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình điều tiết, trữ nước tại các vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước; tận dụng các khu vực khai thác khoáng sản, đất, vật liệu xây dựng sau khi dùng khai thác tạo thành hồ để điều hòa, tích trữ, tạo cảnh quan sinh thái, phòng, chống ngập lụt, cấp nước dự phòng.
Đối với nguyên tắc và quan điểm quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông, Luật quy định rõ nội dung về quy hoạch tổng hợp lưu vực sông để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề khô hạn, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt nhằm tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực.
Các chính sách kinh tế tài nguyên nước
Luật Tài nguyên nước quy định rõ nguyên tắc khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải được kê khai, đăng ký, cấp phép, phù hợp với khả năng đáp ứng của nguồn nước theo phương án điều hòa, phân phối tài nguyên nước và phù hợp với quy hoạch về tài nguyên nước; bảo đảm sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, tiết kiệm, hiệu quả.
Trong đó, Luật quy định cụ thể nguồn thu ngân sách nhà nước từ hoạt động tài nguyên nước gồm thuế, phí về tài nguyên nước; tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; tiền bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước theo quy định của pháp luật; bổ sung đối tượng nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước sinh hoạt và thu tiền cấp quyền khai thác theo lộ trình đối với sản xuất nông nghiệp, quy định về miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; bổ sung quy định về hạch toán tài nguyên nước nhằm tính đúng giá trị của tài nguyên nước trong các hoạt động phát triển KT-XH phục vụ công tác điều hòa phân bổ tài nguyên nước trên các lưu vực sông.
Bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra
Một trong những điểm mới của Luật Tài nguyên nước khi tách bạch việc quản lý nước mặt và nước dưới đất; việc bảo vệ tài nguyên nước dựa trên cơ sở phân định chức năng nguồn nước.
Nguồn nước mặt phải được phân vùng chức năng để thực hiện các biện pháp bảo vệ nguồn nước. Việc phân vùng chức năng nguồn nước mặt được xác định trong quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh đối với nguồn nước mặt liên tỉnh và trong quy hoạch tỉnh đối với nguồn nước mặt nội tỉnh.
Đối với công tác phòng, chống tác hại do nước gây ra, Luật quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra.
Theo đó, hồ, ao, đầm, phá có chức năng điều hòa, cấp nước, phòng, chống ngập úng, tạo cảnh quan, môi trường và bảo vệ, bảo tồn hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, giá trị văn hóa, đa dạng sinh học phải được lập danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp và công bố để quản lý, bảo vệ. Việc khai thác nước biển để sử dụng cho phát triển KT-XH không được gây nhiễm mặn nguồn nước.
Riêng các hoạt động có nguy cơ gây mất ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ phải thực hiện đánh giá tác động và có phương án thực hiện để bảo vệ, phòng, chống sạt lở lòng, bờ, bãi sông, hồ; việc đánh giá tác động và thẩm định phương án thực hiện để bảo vệ, phòng, chống sạt lở lòng, bờ, bãi sông, hồ được thực hiện trong quá trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường./.
11 trường hợp không cần kê khai, đăng ký, có giấy phép khai thác nước
Tại khoản 3, Điều 52 Luật Tài nguyên nước quy định rõ 11 trường hợp không phải kê khai, cấp phép khai thác tài nguyên nước và đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước, gồm: Khai thác nước cho các hoạt động văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phòng cháy, chữa cháy, phục vụ mục đích quốc phòng và an ninh, tưới cây và rửa đường phục vụ mục đích công cộng; khai thác nước mặt quy mô nhỏ để sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; khai thác nước mặt quy mô nhỏ để sử dụng cho các mục đích ngoài mục đích quy định tại điểm a, điểm b, khoản này và điểm đ, khoản 5, Điều này; khai thác nước cho sinh hoạt tại các khu vực trong thời gian xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, sự cố ô nhiễm, dịch bệnh do cấp có thẩm quyền công bố theo quy định của pháp luật; khai thác nước biển để sử dụng cho sản xuất muối; khai thác nước biển phục vụ các hoạt động trên biển; khai thác nước biển quy mô nhỏ để sử dụng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản trên đảo, đất liền; sử dụng mặt nước sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ chứa để nuôi trồng thủy sản, kinh doanh, dịch vụ quy mô nhỏ; đào hồ, ao, kênh, mương, rạch quy mô nhỏ để tạo không gian thu, trữ nước, dẫn nước, tạo cảnh quan; hoạt động sử dụng mặt nước trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi thực hiện theo quy định của pháp luật về thủy lợi và các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.
|
Thụy Anh