Tiếng Việt | English

04/09/2025 - 09:43

Thầm lặng những người chiến sĩ Giao Bưu Vận

Ngày 30/4/1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, cha tôi và những người học cùng lớp Điện báo viên ở chiến khu D, mỗi người mỗi ngành nhưng họ vẫn có tên trong danh sách, nôm na gọi là Câu lạc bộ (CLB) Truyền thống kháng chiến ngành Bưu điện Tây Ninh, thỉnh thoảng vẫn họp mặt. Bây giờ, hầu hết những người tham gia CLB này chắc cũng không còn được mấy người, đếm trên đầu ngón tay, vì cũng đã trên dưới tám mươi rồi.

Những người mở đường, dẫn lối

Gần 15 năm trước, trong một cuộc giao lưu giữa 2 CLB Truyền thống kháng chiến ngành Bưu điện Tây Ninh và TP.Hồ Chí Minh, tôi mới có dịp trò chuyện với họ, hiểu thêm về những chiến công thầm lặng, ít được ai nhắc tới của một ngành, mà đến thời điểm hiện tại cũng đã có 80 năm hình thành và phát triển. Trong số họ, không ít người đã từng trải qua những năm tháng gian lao mà anh dũng ở chiến khu Bắc Tây Ninh.

Hàng chục năm trôi qua, ông Phạm Thanh Dân - chiến sĩ Ban Giao Bưu Vận Trung ương Cục miền Nam thời kháng chiến vẫn còn nhớ được những câu thơ về những người làm nhiệm vụ mở đường, dẫn lối, chuyển hàng khi ấy, đại loại như: Nực cười hai chữ giao thông/ Mang danh liên lạc trong lòng khó thương/ Hằng ngày đưa khách qua đường/ Vai mang cái bị giống phường ăn xin... Rồi ông cười khà, đọc thêm rằng: Giao liên thì phải cho nhanh/ Giúp Đảng lãnh đạo đấu tranh kịp thời.

Đối với ông Phạm Thanh Dân, hình ảnh liệt sĩ Mười Ba trước lúc “ra đi” không bao giờ phai nhòa

Sử sách ghi rằng, ngày 02/6/1962, Ban Giao Bưu Vận Trung ương Cục được thành lập (gọi tắt là Ban Giao bưu R). Sau đó, đến ngày 20/6/1962, Trung ương Cục ra Chỉ thị số 19/CTR quy định nhiệm vụ, chức năng của ngành Giao Bưu Vận miền Nam và tổ chức quản lý ngành theo hệ thống dọc thống nhất toàn miền.

Với ông Dân, ký ức về một thời máu lửa, gian truân, “trông cho hòa bình, chỉ để ngủ một giấc cho đã”, khó mà phai nhòa được. Ông kể, những năm đầu 1960, khi Ban Giao Bưu vẫn còn thuộc khối Dân Chính Đảng của Trung ương Cục, với đủ loại nhiệm vụ, nào là đưa rước cán bộ trung, cao cấp từ Trung ương Cục về các địa phương và ngược lại, những người làm công tác Giao Bưu còn phải đảm nhận việc vận chuyển tài liệu, sách báo, máy móc, linh kiện hay đưa những vật kỷ niệm của những người hy sinh về đến tận tay gia đình họ. Có lúc, đói đến vàng mắt, gạo chôn lâu dưới đất, đào lên nấu, vo không dám mạnh tay vì sợ nát. Đến bữa, người thì cầm ca, người chìa đĩa nhôm sứt sẹo hay muỗng dừa để cho anh nuôi chia lưng cơm. Thức ăn là muối pha nước, mắm ruốc kèm với mớ rau rừng,... Có người đói quá, mò ra rẫy của dân để mót củ mì, về còn bị kiểm điểm. Quần áo rách nát, lưng, mông, đầu gối vá chằng, vá đụp, đến nỗi có chị Việt kiều đi kháng chiến, nhà gởi cho mấy cái quần lãnh Mỹ A, chị cho anh em để may quần đùi.

Hình ảnh của các chiến sĩ Giao Bưu Vận năm xưa tại Phòng Truyền thống Bưu điện TP.Hồ Chí Minh

Năm 1966, Giao Bưu Vận chuyển từ khối Dân Chính Đảng sang Bộ Tư lệnh Miền, đơn vị B-23. Ông Dân bảo, trong suốt cuộc kháng chiến, đơn vị ông có 18 đồng chí hy sinh khi đụng biệt kích Mỹ trên đường làm nhiệm vụ nhưng chưa có một lần để mất hay làm hư hỏng công văn, tài liệu, vũ khí và những kiện hàng được đánh dấu là HQT (hàng quan trọng), mà mãi đến sau này ông mới biết đó là tiền, vàng, đô la. Báo chí viết nhiều về “đường đi của tiền, vàng, đô la” chi viện cho chiến trường miền Nam từ miền Bắc, phần lớn là các khoản viện trợ của các nước anh em, của một số tổ chức, cá nhân quốc tế và Việt kiều có cảm tình với cuộc kháng chiến của Nhân dân Việt Nam.

Những người mở đường thì đã được tuyên dương công trạng nhưng chưa ai viết hay khen tặng những người trực tiếp “thồ” từng kiện hàng, vác lên xe bò, chuyển xuống ghe, hết đụng đám “thầy bùa” (lính Campuchia) đến biệt kích Mỹ - ngụy,... bất chấp tính mạng để bảo vệ hàng. Hai “cựu chiến binh” khác là ông Nguyễn Văn Hòa và ông Nguyễn Quốc Trung cũng khẳng định, B-23 chưa bao giờ để mất bất kỳ một kiện hàng HQT nào.

Trước khi nhắm mắt vẫn nhớ đóng đảng phí, nhường áo cho đồng đội

Trong hồi ức của ông Dân, có một mẩu chuyện mà mỗi khi nhắc lại, ông phải thật kìm lòng mới không rơi nước mắt. Ông vẫn nhớ như in cái chết của liệt sĩ Mười Ba. Đụng biệt kích trong một lần giao liên, ngớt trận, anh em phát hiện ông Mười Ba bị thương nặng, đạn xuyên lủng ngực. Ông Mười Ba thều thào nhắc: “Trái lựu đạn đã rút chốt sẵn, lấy kim tây cài lại (ông Mười Ba định đánh một đòn cuối cùng, chết chung với lính Mỹ - ngụy). Tiền đảng phí để trong bòng, nhớ lấy đóng giùm”. Khi anh em định xé áo bạn để băng vết thương, ông Mười Ba chụp tay lại nói: “Cái áo mới lãnh hồi chiều, để lại cho anh em mặc”, rồi ra đi, rất nhẹ nhàng, không một tiếng rên la.

Người giữ kỷ lục thồ hàng của Giao Bưu Vận năm xưa

“Người chiến sĩ Giao Bưu Vận, dù có khi chỉ làm nhiệm vụ giao liên dẫn đường nhưng phải có bản lĩnh của một người chỉ huy, có khả năng trinh sát, tác chiến như đặc công” - ông Dân nhấn mạnh.

Nếu không có bản lĩnh và khả năng đó làm sao nhận định được tình hình khi dẫn những đoàn khách, có lúc lên đến hàng trăm người, vượt qua những đoạn đường thường xuyên bị pháo dập, máy bay ném bom; sẵn sàng chống trả khi đụng biệt kích, tan trận lại phải đi tìm những vị khách bị thất lạc, nhanh chóng rút khỏi trận địa. Đó là chưa kể những lần phải đưa những nhân sĩ, trí thức Sài Gòn từ thành vào Trung ương Cục như Lâm Văn Tết, Trịnh Đình Thảo,... hay những nhà báo người Úc, Pháp. Chở bằng Honda, ven theo biên giới bên đất Campuchia, những đoạn lầy lội phải mua tre, đan bồ để lót đường, có khi phải cáng bằng võng…

Ông Nguyễn Quốc Trung đang cố hình dung lại những tuyến đường giao liên ngang dọc từ Tây Ninh tỏa ra khắp miền Nam bằng tấm bản đồ cũ

Đối với ông Nguyễn Quốc Trung - cán bộ chỉ huy trạm B1 của Ban Giao Bưu Vận, kỷ niệm mà ông nhớ mãi chính là những trận đánh trong trận càn Đông Dương của Mỹ - ngụy vào năm 1970. Khi đó, gần như toàn bộ căn cứ Trung ương Cục đã rút sang đất Campuchia, giao liên lại vừa đưa đoàn cán bộ của Sư đoàn 5 và Sư đoàn 9 với gần 160 người về đến trạm B1, kẹt lại ở Bảy Bàu (xã Tân Lập, huyện Tân Biên).

Sau khi cử anh em trong trạm đi trinh sát, nhận định Mỹ - ngụy chỉ càn theo QL22 của Việt Nam sang QL7 của Campuchia, nhằm đuổi theo các lực lượng ở Trung ương Cục vừa rút, ông Trung quyết định đánh để tiêu hao sinh lực địch. Vũ khí của trạm B1 chỉ có vài khẩu AK, cabin, CKC, bá đỏ, M79 và chưa đầy chục trái mìn chống tăng. Trong 2 tuần lễ, ông Trung đã chỉ huy đơn vị đánh 4 trận, phá hủy 8 chiếc xa tăng - thiết giáp cho đến khi bắt được liên lạc với Ban, tiếp tục đưa đoàn khách sang căn cứ của Trung ương Cục trên đất Kampong Cham.

Chỉ là một ban trong Trung ương Cục nhưng bộ máy của Giao Bưu Vận có lúc lên đến hơn 12.000 người với 500 trạm, tỏa đi khắp miền Nam.

Dù bây giờ ở Tân Lập có Nhà truyền thống Khu Căn cứ Ban Giao Bưu Vận và Ban Thông tin liên lạc Trung ương Cục miền Nam với rất nhiều hình ảnh, hiện vật,... là “địa chỉ đỏ” của ngành Bưu chính, Viễn thông, Khoa học và Công nghệ, nhưng chừng ấy khó mà kể cho hết những chiến công và bao hy sinh, mất mát của những cán bộ - chiến sĩ Giao Bưu Vận Trung ương Cục miền Nam./.

Đặng Hoàng Thái

Chia sẻ bài viết