Chùa Thiên Mụ
Đi qua chợ Rạch Kiến, nơi có di tích Vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến khoảng 1 cây số, rẽ vào cổng ấp văn hóa ấp 1B, xã Tân Trạch, huyện Cần Đước, chùa Thiên Mụ tự tại, trầm mặc trong không gian yên ắng của miền quê, ít ai biết rằng ngôi “già lam” này có lịch sử gắn liền với một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử dân tộc.
Lịch sử xã Tân Trạch, tài liệu Phật giáo và tư liệu của chùa cho biết, chùa Thiên Mụ hiện diện ở đây từ năm 1726, bấy giờ chỉ là một thảo am nhỏ, chưa có tên tự mà chỉ là tên dân gian, đến nay, không còn ai nhớ.
Năm Đinh Dậu (1777), Tây Sơn tiến vào Nam, bắt 2 chúa Nguyễn là Định Vương (Nguyễn Phúc Thuần) và Tân Chính Vương (Nguyễn Phúc Dương) đem về Gia Định xử tử. Nguyễn Phúc Ánh là cháu gọi Định Vương bằng chú chạy thoát, sau được tướng Đỗ Thành Nhân suy tôn làm Đại nguyên soái, Nhiếp quốc chính.
Thế lực của quân Tây Sơn bấy giờ rất mạnh, Nguyễn Ánh bị truy lùng khắp nơi, phải trốn tránh. Một ngày kia, sau trận giao chiến với quân Tây Sơn ở Gia Định, chúa Nguyễn thất trận, tướng mất quân tan, phải cùng vài mươi người thân tín chạy về phía Tây lánh nạn, đến thôn Tân Trạch thì người ngựa đều mỏi mệt, bèn ghé vào ngôi thảo am ở giữa đồng vắng để nghỉ ngơi, được sư trụ trì là Hòa Thượng Thủ Minh (thế danh Nguyễn Tấn Đức) ân cần tiếp đãi và báo tin cho xã trưởng Mai Văn Hiến biết.
Là người có lòng trung với chúa Nguyễn, ông Hiến đem tài sản, tiền bạc, lúa gạo cung cấp cho Nguyễn Ánh làm quân phí và còn tuyển 50 tráng đinh sung vào đội tàn quân của chúa Nguyễn.
Một đêm nọ, chúa Nguyễn đang ngủ ở chùa thì bổng nằm mộng thấy một bà lão đầu tóc bạc phơ gọi dậy và chỉ tay về hướng Tây. Chúa Nguyễn giật mình tỉnh giấc, trong dạ không an, liền truyền lệnh quân lính rời chùa, vượt sông rút về miền Tây lánh nạn.
3 ngày sau, quân Tây Sơn đến bao vây chùa, không tìm được tông tích chúa Nguyễn, bèn bắt giết xã trưởng Mai Văn Hiến và Hòa thượng Thủ Minh-Nguyễn Tấn Đức.
Khoảng 10 năm sau, khi chúa Nguyễn đẩy lùi Tây Sơn, thu phục đất Gia Định, nhớ lại những ngày tháng long đong tẩu quốc, cho người tìm về thôn Tân Trạch thì mới hay 2 ông Mai Văn Hiến và Nguyễn Tấn Đức đã qua đời.
Bồi hồi nhớ giấc mộng xưa gặp bà lão tại ngôi chùa ở thôn Tân Trạch, chúa Nguyễn sắc tứ cho Chùa mang tên Thiên Mụ Tự (天 姥 寺?), tặng 2 tượng Phật bằng đồng đặt trong 2 phổ đà bằng gỗ chạm lọng, một mõ, một trống sấm và hai đôi câu đối viết theo lối quán thủ (hai chữ đầu mỗi cặp câu đối ghép lại thành tên chùa) như sau:
“Thiên Việt Cao Hoàng Tân
Khải Trình Tường Thế Giới;
Mụ Nam Hoằng Tứ Trạch Nhuận Kiết Khánh Nhân Gian”.
“Thiên An Thanh Chế Thiên Niên Thạnh;
Mụ Tự Hoằng Phong Vạn Đại Hưng”.
Chúa Nguyễn còn khâm ban 2 bài vị thờ 2 ông Mai Văn Hiến và Nguyễn Tấn Đức như sau:
“Phụng Vị Quân Tân Tùng Đại Phu Xã Trưởng Mai Văn Hiến Húy Viết Giác Linh Chi Vị”.
“Phụng Vị Diên Thức Sa Đà Nguyễn Tấn Đức Thượng Thủ Hạ Minh Giác Linh Chi Vị”.
Thông tin từ lạc khoản ghi trên những hiện vật chúa Nguyễn ngự ban cho chùa đề niên hiệu “Cảnh Hưng Ngũ Thập Niên” (1790) vì lúc này, chúa Nguyễn chưa xưng đế, chưa đặt niên hiệu, vẫn giữ niên hiệu Cảnh Hưng của Vua Lê Hiển Tông. Dân gian vẫn còn truyền tụng rằng, bộ ván mà chúa Nguyễn nằm lúc nương náu tại chùa Thiên Mụ rất linh thiêng, không một ai dám nằm lên đó.
Trở lại truyền thuyết chùa Thiên Mụ, khoan hãy bàn đến chi tiết thiên mụ (bà Trời) trong giấc mộng của chúa Nguyễn Ánh, bởi gạt bỏ yếu tố hoang đường vốn là thành tố đặc trưng của truyền thuyết, người ta thấy hiển hiện những yếu tố lịch sử. Sự giống nhau giữa truyền thuyết Thiên Mụ gắn với chúa Nguyễn Hoàng và truyền thuyết Thiên Mụ gắn với chúa Nguyễn Ánh phải chăng đây là dị bản từ một truyền thuyết mà qua đó, chúng ta biết rằng là sự khẳng định chủ quyền của cha ông ta trong cuộc hành trình đi khai mở đất phương Nam của người mở đầu cho cơ nghiệp này là thủy tổ Nguyễn Hoàng ở dãy đất miền Trung và người hậu bối sau cùng của chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh ở đất phương Nam - cũng là người mở ra kỷ nguyên Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Việc ngôi chùa Thiên Mụ (Tân Trạch - Cần Đước) ra đời từ năm 1726 cho thấy lịch sử khai phá ở vùng đất này là rất sớm. Thậm chí, nơi đây đã định hình về mặt tổ chức xã hội, bởi chùa là một thiết chế văn hóa cơ bản của làng xã; có đình, có chùa, có miễu, có chợ,… thì làng xã mới được công nhận chính thức.
Mặt khác, sự có mặt của ông xã trưởng (trưởng thôn) và việc huy động được 50 tráng đinh trong thời gian ngắn, dù chưa thể xác tính tính chính xác của con số này đi nữa nhưng qua đó chứng tỏ cộng đồng ở đây lúc bấy giờ đã đi vào hình thái định cư, ổn định và là một xã hội có nhân lực, vật lực. Việc chúa Nguyễn sắc tứ tên Thiên Mụ Tự cho chùa (1790) chính là sự khẳng định chủ quyền pháp lý của ông cha ta từ rất sớm trên mảnh đất phương Nam mới khai phá.
Câu chuyện phản ánh sinh động một giai đoạn đầy biến động, chiến tranh liên miên giữa 2 tập đoàn phong kiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh vào giữa cuối thế kỷ XVIII; làm chúng ta liên tưởng đến sự tích sông Song Ma hay sông Tình Trinh (tức Vàm Đôi Ma ở ranh hai xã Long Sơn và Long Cang, Cần Đước) mà một số chi tiết Trịnh Hoài Đức ghi trong sách Gia Định thành thông chí, qua đó, phản ánh vùng Cần Đước từng là địa bàn giao tranh ác liệt của 2 thế lực phong kiến này trong lịch sử dân tộc.
Chùa Thiên Mụ Tân Trạch - Cần Đước với những chứng cứ tư liệu và hiện vật cùng những yếu tố văn hóa phi vật thể phản ánh giá trị lịch sử - văn hóa, thực sự là một ngôi “danh lam cổ tự” ở miền Nam.
Những di vật của chúa Nguyễn Ánh tại Chùa Thiên Mụ Câu đối mà chúa Nguyễn ban tặng vẫn còn lưu lại trên hai cặp liễn viết bằng chữ Hán sơn son thếp vàng do Phật tử phụng cúng đề năm 1950 trên dòng lạc khoản. Cái mõ được chùa gìn giữ cẩn thận ở hậu liêu dù có dấu tích hư mục do thời gian. Cái trống sấm xưa rất dài, nay ngắn dần do cắt bỏ phần hư mục ở tang trống sau những lần thay da trống. 2 phổ đà nay chỉ còn một, 2 tượng Phật bằng đồng đặt trong phổ đà cũng mất, phải thay thế bằng tượng khác. 2 bài vị của hai ông Mai Văn Hiến và Nguyễn Tấn Đức bị hư mục nên phục chế lại vào năm 2001. Riêng bài vị xã trưởng Mai Văn Hiến hiện được nhân dân đưa vào thờ trong đình Trạch An ở sát cạnh chùa. |
Nguyễn Tấn Quốc