Trong hơn 60 năm qua, VN đã thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình, giúp giảm sinh hàng chục triệu người.
Tuy nhiên chúng ta đang phải đối mặt với những vấn đề mới của dân số, trong đó có 3 thách thức lớn tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội.
Cả nước ham đẻ con trai
Phó Tổng cục DS-KHHGĐ cho biết, VN hiện nằm trong nhóm 15 nước có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Dù xuất hiện muộn, nhưng tốc độ mất cân bằng giới tính tại VN đang tăng rất nhanh, lan rộng từ thành thị đến nông thôn và ở khắp 6/6 vùng lãnh thổ. Càng người có điều kiện kinh tế, học vấn cao lại càng chọn giới tính khi sinh nhiều.
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại VN ngày càng nghiêm trọng
Ông Tân dẫn chứng, nếu như năm 2006, có 109,8 bé trai/100 bé gái thì đến năm năm 2013 con số này tăng lên 113,8/100 và hiện là 112 bé trai/100 bé gái. Tỉ lệ này tại Hà Nội là 114 bé trai/100 bé gái và nhận định rất khó để đưa về mức cân bằng tự nhiên.
Cá biệt, một số huyện ngoại thành Hà Nội có tỉ lệ giới tính khi sinh đạt ngưỡng báo động đỏ như: Ứng Hòa (132,6 bé trai/100 bé gái); Mê Linh (127/100); Ba Vì (123,6/100); Sóc Sơn (123,5/100); Sơn Tây (123,2/ 100); Mỹ Đức (121,9/100).
Ông Tân cảnh báo, nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, đến 2050, VN sẽ thiếu 2,3-4,3 triệu phụ nữ, trong khi hiện tại mới thiếu hụt vài trăm nghìn.
Khi đó cấu trúc gia đình sẽ tan vỡ, phụ nữ kết hôn sớm, tỉ lệ ly hôn, độc thân cao, bạo hành gia đình, bạo lực giới, mất an ninh trật tự, buôn bán phụ nữ, trẻ em, HIV/AIDS tăng...
Nguy cơ nhà không ai ở, lớp vắng HS
GS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Dân số và các vấn đề xã hội cho biết, giai đoạn những năm 60 thế kỷ trước, trung bình mỗi phụ nữ VN đẻ khoảng 6,8 con. Từ 2005 đến nay, VN duy trì mức sinh thay thế 2,1 con/phụ nữ. Tuy nhiên tỉ lệ này đang giảm dần.
GS Cử dẫn chứng, nhiều tỉnh và thành phố đang có mức sinh quá thấp, như TP.HCM năm 2015 chỉ còn 1,45 con/phụ nữ; Bà Rịa-Vũng Tàu: 1,56, Bình Dương:1,59...
GS Nguyễn Đình Cử
Những lợi ích ngắn hạn khi mức sinh thấp là tỉ lệ tử vong mẹ và trẻ giảm nhanh; Tỉ lệ nhập học cao ở tất cả các cấp; tỉ lệ hộ nghèo giảm theo quy mô gia đình và chất lượng dân số tăng lên.
Tuy nhiên, về dài hạn sẽ tạo ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với phát triển. Dân số giảm sẽ có những ngôi nhà không ai ở, những lớp học vắng học sinh, những con đường ít người đi. Di cư trong nước và di cư quốc tế cao, lao động ngày càng khan hiếm, già hoá nhanh...
“Nhiều nước trên thế giới có mức sinh thấp kéo dài đến khoảng giữa thế kỷ này, số người cao tuổi sẽ chiếm một nửa, thậm chí 60% dân số, chẳng hạn Nhật Bản, Hàn Quốc... Các quốc gia này đang phải vật lộn để giải quyết những hậu quả nặng nề với chi phí cao, kể cả mở rộng nhập cư, nhập khẩu lao động”, GS Cử phân tích.
Dân số già hoá nhanh nhất thế giới
Phó Tổng cục DS-KHHGĐ cho biết, VN đã bắt đầu bước vào già hoá dân số từ năm 2011, khi tỉ lệ người trên 60 tuổi chiếm trên 10%, với khoảng 11 triệu người.
Theo tính toán, đến năm 2030, tỉ trọng người cao tuổi nước ta sẽ chiếm 17% (dân số già) và đến 2050 sẽ bước vào dân số siêu già. Trong khu vực châu Á, hiện Nhật Bản là quốc gia có dân số siêu siêu già (tỉ lệ người già chiếm trên 40%).
Đáng lưu ý, tốc độ già hoá dân số của VN đang nằm trong top nhanh nhất thế giới. Trong khi các nước có nền kinh tế phát triển mất nhiều thập kỷ, thậm chí cả thế kỷ để chuyển sang giai đoạn dân số già thì VN chỉ mất 17-20 năm.
Đơn cử như Pháp mất 100 năm, Thụy Điển 85 năm, Australia 73 năm, Mỹ 69 năm, Canada 65 năm...
Ngoài ra, tuổi thọ trung bình của người Việt có tăng, nhưng gánh nặng bệnh tật lớn. Trung bình mỗi người cao tuổi mắc tới 2,69 bệnh, chủ chủ yếu các bệnh không lây nhiễm như đái tháo đường, cao huyết áp, tim mạch...
Trong khi đó kinh tế VN vẫn ở mức trung bình, già khi chưa kịp giàu, ngược với trình tự của các nước. Đây sẽ là thách thức lớn với hệ thống an sinh xã hội./.
Thúy Hạnh/Vietnamnet.vn