Tiếng Việt | English

19/07/2025 - 08:30

'Chuyến xe Tây Ninh' và một đời tài tử

Đã hơn 5 năm, tôi không còn nghe những cuộc điện thoại lúc tờ mờ sáng, mở đầu bằng câu nói quen: “Ê Hẹ (tên gọi của tôi lúc nhỏ), thằng chó con…!”; cũng không còn nghe kể chuyện văn nghệ kháng chiến, “thời thằng cha mày mỗi lần chui hầm gõ tịch tịch tè tè (morse), chả ma nào dám lại gần vì sợ ăn phi pháo”. Có một điều chắc chắn rằng, bản vọng cổ Chuyến xe Tây Ninh của ông đã vượt qua phạm vi tỉnh lẻ, vươn xa đến tầm cả nước, đến cả bây giờ, cho dù ông đã về với những “người trong cõi nhớ”.

125_487_thanh-hien-2.jpg

Nghệ nhân Ưu tú - soạn giả Thanh Hiền

Gần 20 năm trước, đêm 04/5/2007 tại Nhà hát TP. Hồ Chí Minh, Nghệ sĩ Nhân dân Thanh Tuấn tổ chức liveshow “Đêm tơ vàng”. Khán giả mộ điệu cải lương qua màn ảnh nhỏ hết sức phấn khích khi nghe lại câu vọng cổ “Xe Tây Ninh sáng nay chuyển bánh, chở những niềm vui rộn rã đón xuân… về” của Nghệ nhân Ưu tú - soạn giả Thanh Hiền. Điều bất ngờ hơn là bản tân cổ này được thể hiện bằng 3 giọng ca Thanh Tuấn, Lương Tuấn và Minh Tiến - những nghệ sĩ gắn bó với Tây Ninh khá sâu nặng. Sau này, Chuông vàng vọng cổ Lê Văn Gàn lại tiếp tục làm nức lòng khán giả bằng bài hát một thời mà gần như bất cứ người Tây Ninh nào cũng biết.

Có người đồn rằng, những năm sau giải phóng 1975, nghệ sĩ Thanh Tuấn gần như mất tăm, chỉ đến khi bản Chuyến xe Tây Ninh của soạn giả Thanh Hiền được phát sóng trên Đài Phát thanh TP. Hồ Chí Minh, anh mới dần lấy lại được hào quang của mình trên sân khấu. Đó là chuyện đồn đại, không rõ thiệt hư. Có một điều chắc chắn rằng, bản vọng cổ Chuyến xe Tây Ninh đã thật sự vượt qua phạm vi tỉnh lẻ.

Thế nhưng, Thanh Hiền không phải chỉ có duy nhất một bản vọng cổ “có tầm” như vậy. Trước khi về nơi cõi nhớ, hành trang của ông đã có hàng chục kịch bản cải lương, hàng ngàn bài vọng cổ.

Một lần trò chuyện với ông dưới bóng những cổ thụ trong khuôn viên trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, ông bảo bây giờ vẫn viết kịch bản cải lương, cho dù không phải cái nào cũng được dùng, thậm chí có khi ông phải xếp vào một ngăn tủ nào đó. Trầm ngâm rít thuốc, ông thong thả tiếc cái thời hoàng kim của sân khấu, rồi thong thả nói như tâm sự với chính mình: “Hình như, sân khấu đang tự giết sân khấu. Như việc TP. Hồ Chí Minh tập trung nâng cấp sân khấu cải lương, thực chất chỉ là nâng cấp biểu diễn. Lớp trẻ mới nổi sau này, nhiều nghệ sĩ lên sân khấu, hát bất kể trời đất, chữ “hò”, chữ “xê” không biết, nhịp nội, nhịp ngoại lẫn lộn tứ tung... làm sao mà nâng cấp”.

Có lẽ vì nghĩ vậy, nên suốt nhiều năm liền sau khi rời ghế Chủ tịch Hội, ông vẫn cố công phát triển mảng đờn ca tài tử. Điều đó đã được minh chứng. Bây giờ trong các cuộc thi, đờn ca tài tử Tây Ninh không “ngại” bất kỳ tỉnh nào trên toàn miền Nam này, “đánh đâu thắng đó”. Cũng vì lẽ này, nên trong nhiều cuộc thi tầm cỡ như giải Trần Hữu Trang, Chuông vàng vọng cổ ở TP. Hồ Chí Minh, ban tổ chức luôn mời ông làm giám khảo.

Trong lần dự giải Trần Hữu Trang tại Cần Thơ vào năm 2007, Nghệ sĩ Nhân dân Thanh Tòng nhắc ông, gọi là “sư huynh” một cách thật trân trọng. Ngoài những bài bản vọng cổ, kịch bản sân khấu, ông còn là người đã cất công sưu tầm và chỉnh lý hàng chục bài lý, tiêu biểu như Lý tầm quân (còn gọi là Lý mù sương), Lý bông đậu, Lý sáng trăng, Lý con bìm bịp, Lý bông huỳnh,...

Khi tôi đề nghị ông kể về đời mình, ông cười khà khà với cốt cách đặc biệt mà hình như chỉ có dân xứ Trảng mới có. “Con còn lạ gì bác Tư mà hỏi! Nhưng đã hỏi thì bác Tư nói, người già thường sống với những hoài niệm, thèm được kể chuyện xưa cho lớp trẻ bây giờ nghe!”.

125_384_thanh-hien-3.JPG

Nghệ nhân Ưu tú - soạn giả Thanh Hiền trao giải thưởng cho các cá nhân tại Liên hoan Đờn ca tài tử tỉnh Tây Ninh năm 2010

Thanh Hiền - nguyên Trưởng đoàn Cải lương Tây Ninh, nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Tây Ninh, tên thật là Đỗ Văn Trượng, sinh năm 1942, tại ấp Gia Lâm, xã Gia Lộc, huyện Trảng Bàng (nay là phường Gia Lộc, tỉnh Tây Ninh). Ít ai biết rằng, ông xuất thân từ gia tộc họ Đỗ nổi tiếng ở Trảng Bàng những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Năm 1818, ông Đặng Văn Trước (Cả Trước) vốn là người Bình Định theo cuộc Nam tiến đến làng Bình Tịnh (Trảng Bàng ngày nay) chiêu dân lập làng dọc theo con đường “Thiên lý” do vua Gia Long sai mở từ năm 1815. Con đường từ phía Tây Gia Định đi Nam Vang (Campuchia) qua địa bàn Quang Hóa và Quang Phong (Tây Ninh ngày nay), dân gian thường gọi là “con đường sứ”, có tác động rất lớn đến quá trình khai phá và định cư của người Việt ở Tây Ninh; các khu dân cư dần được hình thành dọc theo con đường này.

Theo chân ông Cả Trước đến Trảng Bàng, còn có nhiều cư dân vùng Ngũ Quảng, trong đó, người trong gia tộc họ Đỗ đều là những người tài hoa, am hiểu nghệ thuật cổ truyền. Sau khi định cư, họ đã kết hợp nghệ thuật cổ truyền ở quê hương với nhạc lễ Nam Bộ, học bài bản tài tử Nam Bộ để trở thành những nghệ nhân đờn ca tài tử nổi tiếng như Đỗ Văn Lá (Chín Lá), Đỗ Văn Hảo (Chín Hảo), Đỗ Văn Rỡ (Hội trưởng Hội Khuyến lệ cổ ca, chủ tế các đền Trần Hưng Đạo và lăng ông Tả quân Lê Văn Duyệt ở Sài Gòn nhiều năm trước và sau 30/4). Gia tộc họ Đỗ từ đời này sang đời khác đều nối nghiệp chơi và truyền bá nghệ thuật tuồng, nghệ thuật đờn ca tài tử cho người dân quanh vùng, tạo nên nhóm đờn ca tài tử lớn nhất ở Tây Ninh lúc bấy giờ.

Thanh Hiền tham gia du kích xã năm 1958, nhưng đến năm 1960 thì bị lộ, nhảy vô bưng. Cũng nhờ các vị lãnh đạo khi đó như ông Tư Văn (Phan Văn - nguyên Tổng Biên tập Báo Tây Ninh, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh) biết ông có ngón đờn kìm cũng khá mướt nên phân về Đoàn Văn công Tây Ninh.

Nhắc lại chuyện này, ông kể: “Có lần, ông Bảy Phát (soạn giả Xuân Phát - nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh) hỏi bác Tư: - Sao hồi đó mày gan vậy, mới vô 3 ngày đã dám sửa kịch bản của tao? Bác Tư đáp liền: - Gan gì anh, thấy anh làm cực quá, mà cái vở Nợ nước thù nhà có nhiều đoạn ca từ không khớp, thì tôi sửa chủ yếu là vì phong trào mà anh”.

Cũng trong năm đó, ông viết bài bản cải lương đầu tiên là bài ca theo điệu xang xừ líu có tựa đề Cho đời ta mãi đượm hương hoa ca ngợi những người nữ du kích. Ở được hơn tháng, ông lại chuyển lên R (Trung ương Cục miền Nam) công tác ở Đoàn Văn công Giải phóng và được thọ giáo soạn giả Trần Hữu Trang. Hết phục vụ Củ Chi, quanh ngược về Bến Cầu, Núi Bà, rồi trở lại Trảng Bàng, băng qua Bến Dược về Củ Chi, cắt qua Phú Giáo về Ba Trâm, lên tuốt Chiến khu Đ ở Tân Uyên.

“Được 4, 5 tháng gì đó, lại nhận được lệnh của ông Trần Bạch Đằng quay về Ban Tuyên huấn R. Ròng rã mấy ngày trời băng rừng từ Chiến khu Đ về, đến khu vực Tà Dơ (Dương Minh Châu), tự dưng bác Tư rưng rưng nước mắt” - ông hồi tưởng.

Cũng từ thời điểm này, nhờ được sự hướng dẫn của soạn giả Trần Hữu Trang, Lý Văn Sâm… tay nghề của Thanh Hiền được nâng lên, viết nhiều hơn. Năm 1972, ông được cử ra Bắc học lý luận nghiệp vụ. Lúc nào học thì học, rảnh ra là ông viết vọng cổ cho Ban Văn nghệ Đài Phát thanh Giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam. Những bài ông viết thời đó như Em bé Phú Riềng, Long An tươi màu lá mạ, Tiếng sóng biển - Tiếng quê hương... rất được nhiều người biết đến qua hai giọng ca cổ nổi tiếng thời đó là Thanh Hùng và Ngọc Hoa.

Năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ông về Hội Nghệ sĩ Sân khấu TP. Hồ Chí Minh. Hòa cùng niềm vui chung của đồng bào, ông viết Bông điệp Sài Gòn, Rẽ mạ đầu mùa, Ngọn cờ hồng phất cao... trong đó có bài Tấc đất tấc vàng đoạt giải Nhất cuộc thi sáng tác do Tiểu ban Văn nghệ thuộc Ủy ban Quân quản thành phố tổ chức. Trong những năm này, ông lên xuống Tây Ninh liên tục. Trên chuyến xe đò về quê dịp cuối năm 1976, đầu xuân 1977, ông viết bài Chuyến xe Tây Ninh.

Ông kể, thật ra hoàn cảnh ra đời của bản vọng cổ này cũng khá đơn giản. Trên chuyến xe ấy, ông quen một cô gái ngồi bên, tên là Vân, ba cô là liệt sĩ, nhưng cô lại có chồng là thiếu úy quân đội ngụy, đang học cải tạo. Cũng vì thế nên gia đình chồng cô liên tục chì chiết, bảo rằng “Mày bị bên vợ mày bỏ tù, hãy thôi nó đi…”. Dù hai vợ chồng rất thương nhau nhưng vì áp lực gia đình, chồng cô buộc phải vâng lời. Trong cuộc trao đổi nhỏ trên chuyến xe, ông đã cố gắng lựa lời an ủi và chúc cô thuyết phục được chồng để giữ được hạnh phúc.

Năm 1976, hai soạn giả Thanh Hiền, Thanh Hải về Trảng Bàng dự đám cưới một người bà con. Đêm văn nghệ thật sôi nổi, hào hứng. Có một cô bé tên là Kim Thoại, khoảng 13-14 tuổi ca rất ngọt, nhịp nhàng điêu luyện, vóc dáng cao ráo, gương mặt dễ thương, hai ông như phát hiện ra viên ngọc quý ẩn mình. Sau đó, hai ông tìm đến nhà gặp mẹ cô bé, xin nhận cô làm con nuôi, và xin cho cô về Đoàn Văn công Tây Ninh để đào tạo.

Thời đó, được tuyển làm diễn viên của Đoàn Văn công tỉnh là một vinh dự lớn đối với gia đình, làng xóm; đồng thời, chế độ bồi dưỡng của một diễn viên khá cao so với một số ngành nghề khác. Âu đó cũng là một cuộc đổi đời, thoát khỏi cảnh lam lũ đồng khuya ruộng sớm.

Một lần trò chuyện khi chị vừa nghỉ hưu, Nghệ sĩ Ưu tú Kim Thoại hồi tưởng, cha mất từ năm chị vừa tròn 12 tuổi, mẹ phải tần tảo nuôi dưỡng bốn đứa con. Làng Gia Bình, xứ Trảng là nơi có phong trào đờn ca tài tử từ lâu đời của đất Tây Ninh. Sau ngày lao động mệt nhọc, đêm đêm Kim Thoại cùng các chú, các anh chị quây quần trước sân nhà ca hát, giúp cho những người dân quê quên đi mệt nhọc đồng áng. Đám tiệc hiếu hỷ, những cuộc liên hoan văn nghệ mừng ngày thống nhất đất nước của xứ Trảng đều có cô bé Kim Thoại góp lời ca tiếng hát.

Chị bảo, nếu không gặp hai soạn giả Thanh Hiền, Thanh Hải thì có lẽ chị không có cơ hội đến với nghề hát. May mắn lớn nhất là chị được phát triển nghề nghiệp trong một môi trường chuyên nghiệp, được nhiều người thầy có tâm, có tầm dẫn dắt.

Trong đời mình, Thanh Hiền được trao nhiều giải thưởng như Huy chương Bạc toàn quốc, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu, Giải Nguyễn Thông, Giải Văn học Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh… Ông cũng là một trong những nghệ nhân, nghệ sĩ đầu tiên được trao Giải Xuân Hồng - giải thưởng văn học nghệ thuật đầu tiên của tỉnh Tây Ninh. Đó là sự ghi nhận xứng đáng những công lao đóng góp của ông - người gắn bó cả đời với loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

Cho đến bây giờ, nhắc đến Thanh Hiền, nhiều người vẫn nhớ hình bóng người nghệ sĩ ngồi bên ly cà phê, dưới tán những cổ thụ trong khuôn viên Nội ô Tòa thánh, bàn tay lướt trên dây đờn kìm, đôi mắt lim dim, vẳng nghe điệu lý:

“Sương giăng đầy, sương giăng đầy

bên sông…

Thêm nhớ mong, ngóng trông

tin chàng (-)

Trời sương mịt mờ, biết ngóng chờ

phương chi…

Vì nghĩa anh đi - Tháng năm

em đợi (-)

Mịt mờ khói sương. Trắng trời

nhớ thương.

(Lý mù sương)./.

Đặng Hoàng Thái

Chia sẻ bài viết