Tiếng Việt | English

30/05/2025 - 09:37

Đề án 1 triệu hécta lúa chất lượng cao, phát thải thấp - 'Cuộc cách mạng' trên đồng ruộng: Để đề án đạt hiệu quả bền vững (Bài cuối)

Trong bối cảnh ngành Nông nghiệp đối diện với những thách thức lớn từ biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nông sản, tỉnh Long An là một trong những địa phương tiên phong trong thực hiện “cuộc cách mạng” trên đồng ruộng. Đề án Phát triển bền vững 1 triệu hécta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 không chỉ là một chương trình canh tác mà còn thay đổi mạnh mẽ tư duy sản xuất lúa gạo từ cách làm truyền thống sang ứng dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại.

Bài cuối: Để đề án đạt hiệu quả bền vững

Sau hơn 1 năm triển khai, Đề án (ĐA) Phát triển 1 triệu hécta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 đã bắt đầu lan tỏa những hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia và nhà quản lý, để ĐA thực sự tạo nên cú hích chuyển đổi mô hình tăng trưởng cho ngành hàng lúa gạo từ số lượng sang chất lượng, từ tự phát sang tổ chức, từ phát thải cao sang phát triển xanh thì cần một hệ thống giải pháp đồng bộ, quyết liệt và có chiều sâu.

Những tín hiệu tích cực ban đầu

Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT), theo kế hoạch, ĐA được thực hiện theo 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 (2024-2025) sẽ tập trung thực hiện đạt 60.000ha diện tích canh tác lúa thuộc vùng Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSat) và vùng lúa ứng dụng công nghệ cao của tỉnh.

Giai đoạn 2 (2026-2030) tiếp tục mở rộng để đạt 125.000ha tại các huyện: Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Thủ Thừa và thị xã Kiến Tường (có 62 xã với 50.800 hộ tham gia).

Hợp tác xã Dịch vụ Thương mại Nông nghiệp Cây Trôm (xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng) sấy lúa tại kho

Mục tiêu của ĐA đến năm 2030 là giảm lượng lúa giống gieo sạ xuống còn dưới 70kg/ha, giảm 30% lượng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, giảm 20% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống. Ngoài ra, thất thoát sau thu hoạch dưới 8%; 100% rơm tại các vùng chuyên canh được thu gom khỏi đồng ruộng và được chế biến tái sử dụng; giảm hơn 10% lượng phát thải khí nhà kính so với canh tác lúa truyền thống; tỷ suất lợi nhuận của nông dân trồng lúa hơn 50%.

Thông tin từ Chi cục Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong vụ Đông Xuân 2024-2025, tỉnh triển khai 8 mô hình điểm và các huyện triển khai 5 mô hình điểm với tổng diện tích 268ha. Các mô hình đã áp dụng đồng bộ quy trình canh tác tiên tiến như “1 phải, 5 giảm”, “3 giảm, 3 tăng”, tưới ngập khô xen kẽ (AWD), sử dụng giống xác nhận, phân bón hữu cơ vi sinh, quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và ghi nhật ký sản xuất điện tử.

Năng suất bình quân tại các mô hình đạt 6,8-7,2 tấn/ha, tăng từ 0,4-0,6 tấn/ha so với ruộng ngoài mô hình. Đặc biệt, chi phí đầu vào giảm từ 1,2-1,6 triệu đồng/ha, lượng phân đạm giảm từ 20-30%, thuốc bảo vệ thực vật giảm tới 40%. Việc áp dụng AWD giúp giảm lượng nước tưới khoảng 25-30%, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính.

Phó Giám đốc Sở NN&MT - Đinh Thị Phương Khanh đánh giá: “Thành công bước đầu của ĐA là thay đổi nhận thức canh tác của nông dân từ làm theo tập quán sang làm theo kỹ thuật, từ mạnh ai nấy làm sang tổ chức lại sản xuất. Quan trọng hơn, ĐA đã tạo ra một hệ sinh thái mới, nơi doanh nghiệp, nhà khoa học, kỹ thuật viên và nông dân cùng vận hành trong một chuỗi liên kết”.

Tuy nhiên, kết quả bước đầu vẫn còn mang tính mô hình điểm, diện tích triển khai còn hạn chế, liên kết chưa bền vững, hạ tầng và cơ chế hỗ trợ còn thiếu đồng bộ. Nhiều khó khăn thực tế vẫn đang là lực cản khiến ĐA chưa thể nhân rộng nhanh như kỳ vọng.

Hiện toàn tỉnh Long An có 252 hợp tác xã (HTX) nông nghiệp nhưng chỉ khoảng 40% đủ điều kiện tham gia chuỗi sản xuất theo yêu cầu của ĐA (có cán bộ kỹ thuật, có ghi chép nhật ký sản xuất, có năng lực tổ chức sản xuất và tiêu thụ). Phần lớn HTX còn hoạt động ở mức cơ bản, thiếu vốn, thiếu nhân lực chuyên môn, thiếu thiết bị ghi chép và truy xuất nguồn gốc.

Theo Giám đốc HTX Dịch vụ Nông nghiệp Gò Gòn (xã Hưng Thạnh, huyện Tân Hưng) - Trương Hữu Trí, muốn HTX làm được vai trò trung gian tổ chức sản xuất thì phải có đầu tư xứng đáng. Hiện nhiều HTX vẫn phải xoay xở từng vụ, không có vốn lưu động để thu mua lúa cho dân, thiếu máy móc thu hoạch, không có kho chứa nên rất khó giữ giá.

Mặt khác, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa sẵn sàng ký hợp đồng bao tiêu dài hạn với HTX do lo ngại rủi ro từ phía nông dân (không bảo đảm kỹ thuật, bán lúa ra bên ngoài). Trong khi đó, nông dân cũng còn e dè với hợp đồng liên kết do từng bị “lật kèo” hoặc giá thu mua không ổn định.

Cần vận hành đồng bộ các giải pháp

Để khắc phục những “điểm nghẽn” và đưa ĐA vào giai đoạn thực thi sâu, rộng, tạo tác động thực sự đến tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo, nhiều giải pháp đang được các bộ, ngành và địa phương tích cực thúc đẩy. Trong đó, việc củng cố, nâng chất các HTX được xem là một trong những nhiệm vụ then chốt. Đây là nơi liên kết nông dân, tổ chức lại sản xuất, kết nối với doanh nghiệp và thị trường, đồng thời là đơn vị đại diện để tiếp cận các chính sách hỗ trợ và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.

Hợp tác xã Dịch vụ Thương mại Nông nghiệp Cây Trôm (xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng) sấy lúa tại kho

Ngoài ra, các địa phương tăng cường chuyển giao khoa học - kỹ thuật, đưa các tiến bộ vào đồng ruộng giúp nông dân thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, hướng đến sản xuất hiệu quả, an toàn, tiết kiệm đầu vào và giảm phát thải. Việc đầu tư hạ tầng sản xuất hiện đại, nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông nội đồng, cơ sở bảo quản và chế biến cũng là điều kiện cần thiết để giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Một hướng đi quan trọng khác là gắn sản xuất với thị trường và chế biến sâu, không chỉ dừng lại ở khâu trồng trọt. Đây là yếu tố bảo đảm tính bền vững và khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo. Việc ứng dụng số hóa và xây dựng hệ thống giám sát minh bạch cũng được đặt ra như một giải pháp căn cơ trong bối cảnh nhu cầu truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế.

Theo bà Đinh Thị Phương Khanh, đến thời điểm này, các mô hình điểm do tỉnh, huyện thực hiện đều mang lại những kết quả tích cực. Đây là cơ sở quan trọng để ĐA có thể nhân rộng nhanh trong thời gian tới, đặc biệt khi đã có sự vào cuộc mạnh mẽ từ các cấp chính quyền và sự đồng thuận từ phía nông dân.

“Hiện Sở tập trung hoàn thành các nội dung kế hoạch, đặc biệt là các hợp phần tham gia ĐA cùng Bộ NN&MT như hợp phần về đầu tư hạ tầng; lựa chọn các mô hình để triển khai trong vụ Hè Thu 2025;... để phối hợp tính toán lượng giảm phát thải theo chỉ đạo của Bộ. Riêng trong những tháng còn lại của năm 2025, Sở tập trung chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho nông dân, trong đó, chú ý giảm lượng giống gieo sạ và đưa rơm rạ ra khỏi đồng ruộng” - bà Đinh Thị Phương Khanh thông tin.

Không chỉ là những con số hay diện tích, ĐA còn là một quá trình thiết kế lại toàn bộ hệ sinh thái ngành lúa gạo từ chính sách, hạ tầng, khoa học - kỹ thuật, tổ chức sản xuất đến thị trường và con người. Tất cả các yếu tố này cần vận hành đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành và doanh nghiệp, HTX và nông dân.

Phát biểu tại hội nghị Lễ khởi động ĐA, Phó Chủ tịch UBND tỉnh - Nguyễn Minh Lâm khẳng định: “ĐA “1 triệu hécta lúa chất lượng cao” là cơ hội để Long An chuyển mình thành trung tâm sản xuất lúa gạo xanh - hiện đại. Tỉnh sẽ tập trung mọi nguồn lực, từ quy hoạch vùng nguyên liệu, đào tạo nhân lực đến hạ tầng, thị trường và chính sách; đồng thời, xem đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của ngành Nông nghiệp từ nay đến năm 2030”.

Bên cạnh các yếu tố vật chất thì yếu tố con người, cụ thể là đội ngũ cán bộ nông nghiệp, cán bộ HTX, nông dân và doanh nghiệp cũng đóng vai trò quyết định. Việc thay đổi nhận thức, nâng cao năng lực sản xuất và khả năng hợp tác giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị sẽ quyết định sự thành công thực sự của ĐA trong dài hạn.

Thành công của ĐA không đơn thuần là tăng sản lượng hay giảm chi phí sản xuất mà còn hướng đến hình thành một hệ thống sản xuất nông nghiệp mới, thân thiện môi trường, hiệu quả kinh tế cao hơn và bền vững. Chỉ khi đó, ĐA mới thực sự trở thành một động lực chiến lược trong tiến trình tái cấu trúc ngành hàng lúa gạo Việt Nam trong kỷ nguyên tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu./.

  Đề án 1 triệu hécta lúa chất lượng cao, phát thải thấp - 'Cuộc cách mạng' trên đồng ruộng: Những trợ thủ đắc lực của nhà nông (Bài 3)

Đề án 1 triệu hécta lúa chất lượng cao, phát thải thấp - 'Cuộc cách mạng' trên đồng ruộng: Những trợ thủ đắc lực của nhà nông (Bài 3) 

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nông sản, tỉnh Long An là một trong những địa phương tiên phong trong thực hiện “cuộc cách mạng” trên đồng ruộng.

 

Bùi Tùng - Lê Ngọc

Chia sẻ bài viết