Tỉnh đề xuất, kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi một số quy định trong luật cho phù hợp thực tế
Một số quy định chưa phù hợp thực tế
LĐĐ năm 2013 chính thức được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, bao gồm 14 Chương, 212 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cũng được ban hành và tổ chức triển khai, thực hiện.
Hơn 8 năm triển khai trên địa bàn tỉnh, LĐĐ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước lĩnh vực chuyên ngành, tạo động lực để KT - XH địa phương phát triển. Thông tin từ UBND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, từ khi LĐĐ năm 2013 có hiệu lực thi hành, cùng với hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành từ cấp trên giúp địa phương thuận lợi trong quá trình quản lý nhà nước, tuân thủ và thực hiện đúng quy định pháp luật, khai thác, sử dụng tài nguyên đất hợp lý, hiệu quả, hạn chế thấp nhất tình trạng lãng phí đất đai. Tuy nhiên, địa phương cũng gặp một số khó khăn nhất định khi triển khai LĐĐ.
Hiện nay, LĐĐ và Thông tư 30 của Bộ TN&MT xác định diện tích chuyển mục đích sử dụng đất (SDĐ) của hộ gia đình, cá nhân theo nhu cầu mà không nêu rõ diện tích tối đa là bao nhiêu mét vuông, do đó rất khó cho cán bộ chuyên muôn khi thẩm tra thực địa. Các dự án, công trình SDĐ lúa diện tích trên 10ha theo quy định tại khoản 1, Điều 58 LĐĐ năm 2013 phải trình Thủ tướng Chính phủ, trong khi thời gian UBND tỉnh trình Bộ TN&MT, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đến lúc Thủ tướng Chính phủ có văn bản chấp thuận khá dài, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án,...
Theo Chủ tịch UBND huyện Tân Thạnh - Lê Thanh Đông, quá trình triển khai thi hành LĐĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác quản lý và SDĐ tại địa phương. Tuy nhiên, việc triển khai luật vẫn còn những khó khăn nhất định. Công tác dự báo nhu cầu SDĐ chưa sát với tình hình thực tế phát triển của địa phương. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa chưa gắn với quy hoạch, kế hoạch SDĐ được duyệt.
Bên cạnh đó, việc chuyển đổi cây trồng trên đất trồng lúa rộng khắp các địa bàn trong huyện, nguyên nhân người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo nhu cầu thị trường, gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phá vỡ quy hoạch của địa phương. Trong khi đó, chế tài xử lý hành vi chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa còn vướng mắc.
Theo Giám đốc Sở TN&MT - Võ Minh Thành, UBND tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo, nghiêm túc triển khai, thực hiện LĐĐ và đạt nhiều kết quả nhất định. Tuy nhiên, LĐĐ khi triển khai còn gặp một số tồn tại, hạn chế liên quan đến dự án có SDĐ trồng lúa; lập thủ tục đất đai đối với các trường hợp kiểm đếm vắng chủ, kiểm đếm bắt buộc; về việc xác định hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; quản lý, sử dụng quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích; hủy giấy chứng nhận quyền SDĐ; công tác định giá đất; giải quyết tranh chấp đất đai; việc khiếu nại đòi lại đất cũ,... LĐĐ có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác nhưng chưa được hướng dẫn, tháo gỡ kịp thời dẫn đến địa phương lúng túng trong quá trình thực hiện.
Quy định về giao đất, cho thuê đất và giá đất chưa được quy định rõ ràng, nhất là các phương pháp xác định giá đất còn định tính, chưa định lượng, vì vậy trong quá trình xác định giá đất bồi thường, kể cả xác định giá đất để thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai còn nhiều khó khăn, bất cập trong việc thu thập thông tin để đưa ra giá cụ thể được chính xác, từ đó dẫn đến nhiều trường hợp sau khi xác định giá đất thì nhà đầu tư khiếu nại. Về quy hoạch đất trồng lúa, hiện nay, việc khoanh vùng khu vực diện tích đất trồng lúa cần được bảo vệ nghiêm ngặt để phục vụ trồng lúa nước nhằm bảo đảm vấn đề an ninh lương thực do Bộ TN&MT xác định. Tuy nhiên, việc xác định nêu trên đôi khi chưa phù hợp mục tiêu phát triển KT - XH của địa phương,...
Kiến nghị điều chỉnh,sửa đổi
Ông Võ Minh Thành nhấn mạnh, qua ghi nhận thực tế, ngành TN&MT tổng hợp các ý kiến của các địa phương báo cáo UBND tỉnh và tham mưu, đề xuất, kiến nghị cấp trên xem xét, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung một số quy định của LĐĐ năm 2013. Cụ thể, đề nghị bổ sung Điều 19: “Quy định cụ thể cách xác định phần điều tiết giá trị tăng thêm”; Sửa đổi Điều 58 theo hướng phân cấp cho HĐND cấp tỉnh giám sát và xem xét, quyết định cho phép chuyển mục đích đất trồng lúa không giới hạn diện tích. Giữ nguyên đối tượng dự án quy định tại điểm d, khoản 3, Điều 62 như hiện nay.
Tuy nhiên, cần quy định những chính sách bồi thường phù hợp nhằm bảo đảm khi Nhà nước thu hồi đất, người dân không khiếu nại, khiếu kiện về giá và chính sách bồi thường. Chuyển sang quy định hình thức quản lý bằng công cụ kinh tế: Quy định cụ thể khi nhà đầu tư được giao, cho thuê đất nhưng chậm đưa vào sử dụng thì nhà đầu tư phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền SDĐ, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án. Không thực hiện thu hồi như Điều 64 LĐĐ hiện nay.
Quy định khoảng thời gian nhất định trong điểm a, khoản 3, Điều 69. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được thực hiện bồi thường bằng đất không cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi nhưng phải tổ chức xác định giá đất cụ thể cho cả loại đất thu hồi và loại đất bồi thường; đồng thời, thực hiện thanh toán khoản chênh lệch (nếu có). Cần thống nhất quy định giữa LĐĐ năm 2013 và Nghị định số 01/2017/NĐ-CP, ngày 06/01/2017 của Chính phủ. Sửa đổi khoản 3, Điều 114 theo hướng: Hội đồng thẩm định giá đất tỉnh sau khi thẩm định giá, trình UBND tỉnh phê duyệt; ngoài cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh thuê đơn vị tư vấn xác định giá đất cụ thể, tùy tình hình thực tế tại địa phương, UBND cấp huyện được thuê đơn vị tư vấn xác định giá đất cụ thể (giá bồi thường).
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 118 theo hướng: Đối với đất chưa được bồi thường, giải phóng mặt bằng (sau khi hoàn thành bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư bằng nguồn vốn của chủ đầu tư), giao đất, cho nhà đầu tư thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền SDĐ. Nâng hạn mức giao đất và hạn mức nhận chuyển quyền SDĐ nông nghiệp.
Đề nghị bổ sung Điều 159: “Quy định cụ thể hạn mức giao đất cơ sở tôn giáo” và bỏ khoản 3, Điều 191. Đối với các Nghị định hướng dẫn, chỉnh sửa điểm b, khoản 3, Điều 3 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2021: “Áp dụng thống nhất một phương pháp xác định giá đất theo thị trườn, không đưa ra quá nhiều phương pháp và có hướng dẫn cụ thể bằng các ví dụ mang tính định lượng”. Đề nghị có Bộ Tài chính tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung theo quy định về cách tính tiền SDĐ, tiền thuê đất theo hướng: Xác định giá đất tính tiền SDĐ, tiền thuê đất theo giá đất cụ thể (giá thị trường) mà không phân biệt theo giá trị khu đất hoặc thửa đất từ 20 tỉ đồng trở lên hoặc dưới 20 tỉ đồng (thực hiện tương tự như trường hợp quy định của LĐĐ năm 2003) để bảo đảm phù hợp giữa giá đất bồi thường và giá đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.
Đối với các Thông tư hướng dẫn liên quan lĩnh vực đất đai, đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 5, Điều 3 Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT: “Trích đo địa chính thửa đất là việc đo đạc địa chính riêng đối với thửa đất tại nơi chưa có bản đồ địa chính hoặc đã có bản đồ địa chính nhưng không đáp ứng được yêu cầu quản lý đất đai hoặc có biến động về ranh giới SDĐ của thửa đất phải chỉnh lý".
Đề xuất sửa đổi, trường hợp xác định tiền SDĐ chuyển từ đất khu công nghiệp được nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ sang đất ở: Việc xác định số tiền SDĐ của loại đất trước khi chuyển mục đích của thời gian SDĐ còn lại tại thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích SDĐ thực hiện như trường hợp xác định số tiền thuê đất nộp một lần cho thời gian thuê đất còn lại theo quy định tại điểm 1.1, khoản 1, Điều 4 Thông tư số 76/2014/TT-BTC, ngày 16/6/2014 của Bộ Tài chính./.
"UBND tỉnh báo cáo, xin ý kiến Bộ TN&MT tháo gỡ vướng mắc, khó khăn khi triển khai thi hành LĐĐ. Trong đó, Bộ cần hướng dẫn đối với cách tính chi phí lãi vay, chi phí đầu tư xây dựng theo phương pháp thặng dư áp dụng theo suất đầu tư của tỉnh hay áp dụng theo dự toán công trình hạ tầng kỹ thuật được cơ quan có thẩm quyền thẩm định và trong công tác thu thập thông tin tài sản tương đồng một cách chính xác nhất, thu đúng, thu đủ. Hướng dẫn địa phương tháo gỡ vướng mắc trong việc xác định số tiền SDĐ của loại đất trước khi chuyển mục đích.
Bộ TN&MT hướng dẫn có thể tăng nhóm công lao động được hay không và tăng bao nhiêu nhóm cho phù hợp với quy định; hướng dẫn đối với dự án khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới, chỉnh trang đô thị, làm cơ sở xác định thuộc trường hợp thu hồi đất theo Điều 62 hay nhận, chuyển nhượng, thuê quyền SDĐ, góp vốn bằng quyền SDĐ theo Điều 73 LĐĐ năm 2013.
Đồng thời, Bộ cũng hỗ trợ, xem xét, hướng dẫn địa phương tháo gỡ vấn đề về đối tượng thu hồi đất; thẩm quyền chấp thuận việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích SDĐ đối với hộ gia đình, cá nhân; điều chỉnh cơ cấu SDĐ theo quy hoạch xây dựng chi tiết; giải quyết trường hợp đất đai đối với trường hợp nhiều người đứng tên đồng sử dụng trên giấy chứng nhận quyền SDĐ;...".
Chủ tịch UBND tỉnh - Nguyễn Văn Út
|
Châu Sơn