Tượng Đại thi hào Nguyễn Du tại khu lưu niệm ở quê hương của ông (Nghi Xuân, Hà Tĩnh)
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) và Truyện Kiều đã trở thành một phần hồn cốt của dân tộc. Năm 1923, những nhà điện ảnh Pháp đã chuyển thể Truyện Kiều thành bộ phim Kim Vân Kiều từng gây tranh luận. Tờ Đông Pháp thời báo do ông Trần Huy Liệu làm chủ bút, có bài “Chớp bóng Kim Vân Kiều” của Công Luận, viết: “… Trong bản chớp bóng có 3 nhân vật quan trọng là Kiều, Kim Trọng và Hoạn Thư. Vai Kim Trọng thì chẳng khác gì một thằng ngốc, diện mạo chẳng ra chi, thái độ lại khả bỉ làm sao chẳng khác chi cái thái độ của mấy anh bôi nhọ mặt ở rạp Quảng Lạc. Nhất là lúc đi tìm nhà trọ… Đến lúc đối diện với Kiều coi thái độ chàng Kim đối với nàng Kiều chả khác gì cái tư cách một bác lính “chào mào” ngồi lần khân với một gái giang hồ… Tóm lại, cuộc chớp bóng vừa rồi thiệt không có giá trị gì, chả lột được đôi chút tinh thần Truyện Kiều, chớp bóng có lẽ lại làm giảm mất cái chân giá trị đối với thế giới…”. (Đông Pháp thời báo số ra ngày 24/9/1924).
Trên thực tế, Đại thi hào Nguyễn Du, thông qua Truyện Kiều, đã cho mọi người thấy được thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Hoa. Các nhân vật như Vương Thúy Kiều, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến đều có thật trong lịch sử. Từ câu chuyện có thật của lịch sử Trung Hoa, Thanh Tâm Tài Nhân đã viết thành Kim Vân Kiều truyện. Đại thi hào Nguyễn Du nhân vua nhà Nguyễn nước ta sai đi sứ sang Trung Hoa thời Thanh đã đọc được Kim Vân Kiều truyện và ông đã xúc động mà viết nên Truyện Kiều.
Còn thực tế ở Việt Nam, thân phận của người phụ nữ khác hẳn. Không có chuyện người đàn ông Việt Nam coi khinh người phụ nữ. Cái tài của Nguyễn Du là đã dùng quan niệm về người phụ nữ của dân tộc ta để đả phá quan niệm về người phụ nữ trong Nho giáo từ Trung Quốc. Những tư tưởng coi khinh người phụ nữ như xem phụ nữ như món hàng để mua bán, xem trọng trinh tiết,… đã bị Đại thi hào Nguyễn Du lên án trong Truyện Kiều. Đặc biệt, chữ “trinh” của Kiều trong tâm thức Đại thi hào Nguyễn Du chính là “lấy hiếu làm trinh”.
Đại thi hào Nguyễn Du, thông qua Truyện Kiều, đã cho mọi người thấy được thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Hoa
Trong khi đó, xã hội phong kiến Trung Hoa là xã hội phụ quyền, tồn tại hàng ngàn năm với những quan niệm bất công, khắt khe như “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” và quan niệm trọng nam, khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Như vậy, câu “Đau đớn thay phận đàn bà” của Nguyễn Du là nói đến Đạm Tiên, một phụ nữ Trung Hoa tận đáy xã hội Trung Hoa với nghề kỹ nữ! Vương Thúy Kiều là kiếp sau của Đạm Tiên, cũng vướng vào nghề kỹ nữ nhưng khác với sự thật lịch sử bên Trung Hoa, Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là cái chết do nhảy xuống sông tự vẫn. Sau 15 năm Kiều lưu lạc thì Kim Trọng vẫn thủy chung chờ đợi và tìm kiếm nàng. Kiều đã xin đổi duyên vợ chồng với Kim Trọng thành duyên tri kỷ và Kim Trọng cũng đã đồng ý! Chỉ có văn hóa Việt Nam mới sinh ra được câu chuyện kỳ lạ như thế! Nghĩa là người phụ nữ quyết định được cuộc sống của chính mình. Chẳng hạn, Luật Hồng Đức của nhà Lê ở nước ta đã bảo đảm cho con gái được hưởng quyền thừa kế tài sản bình đẳng như con trai. Con gái, cháu gái có quyền hương khói cho cha mẹ trong trường hợp trong nhà không có con trai, cháu trai (Điều 391, Điều 395); nếu con trai trưởng còn nhỏ thì bà quả phụ có quyền thay con mà tế tự tổ tiên. Trong hôn nhân, luật giành cho người phụ nữ có quyền từ hôn nếu thấy vị hôn phu chẳng may bị ác tật, phạm tội hay phá sản (Điều 322). Điều 308 cho phép người vợ có quyền bỏ chồng nếu trong 5 tháng người chồng bỏ rơi vợ, không đi lại. Khi ly hôn, tài sản của ai có trước khi kết hôn được trả về cho người đó, còn tài sản chung do hai vợ chồng làm nên thì chia đều cho mỗi người một nửa.
Một bộ phim có nội dung liên quan đến Truyện Kiều của Nguyễn Du (Ảnh : Internet)
Bởi vậy, có thể khẳng định Nguyễn Du không dịch Kim Vân Kiều truyện ra tiếng Việt mà chỉ dựa vào cốt truyện để viết nên một truyện thơ mới thuần Việt, một truyện thơ mang tư tưởng nhân văn sâu sắc của người Việt Nam. Chính vì thế, Truyện Kiều mới có sức sống mãnh liệt!
Vào thời kỳ Pháp thuộc, Phạm Quỳnh từng nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Tuy nhiên, nước ta còn không phải là do tiếng nói văn tự như Phạm Quỳnh nhận định mà chính là tiếng nói từ lương tri dân tộc đã tạo nên bản sắc Việt Nam trong hàng ngàn năm, không lẫn lộn vào các nền văn hóa mang tính nô dịch từ phong kiến Trung Quốc hay từ phương Tây thời thực dân tràn đến! GS. Trần Quốc Vượng (1934-2005) khẳng định: “Nhân dân ta vốn có truyền thống tôn trọng phụ nữ”. Bởi người phụ nữ đầu tiên, người mẹ đầu tiên của người Việt là Âu Cơ. Mẹ đã đẻ trăm trứng nở trăm con. Năm mươi người con theo Mẹ Âu Cơ lên rừng đã lập nên Nhà nước Văn Lang.
Năm 1965, trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng, nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989) đã nhận định: “Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chinh phục các thế hệ công chúng trong hơn 200 năm qua, được chuyển ngữ sang hơn 20 thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Anh, Nga, Pháp,... với trên 35 bản dịch, góp phần để tác giả của nó được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) vinh danh là “Vĩ Nhân Văn hóa” (Great Personalities)./.
Nguyễn Văn Toàn