Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 tại Kỳ họp thứ 7
1. Luật BHXH năm 2024 mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Ngoài các đối tượng kế thừa quy định Luật hiện hành, Điều 2 Luật BHXH năm 2024 mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, gồm: Chủ hộ kinh doanh tham gia theo quy định của Chính phủ; người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ theo quy định của Luật Doanh nghiệp; thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc, thành viên ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã không hưởng tiền lương; người lao động (NLĐ) làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thấp nhất; trường hợp NLĐ và người sử dụng LĐ thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên;...
Bên cạnh đó, nhằm từng bước hướng tới chính sách BHXH bắt buộc đối với toàn bộ NLĐ có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết, Luật quy định giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia BHXH bắt buộc đối với đối tượng khác mà có việc làm, thu nhập ổn định, thường xuyên trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH từng thời kỳ.
2. Rút ngắn thời gian cấp sổ BHXH bắt buộc lần đầu
Khoản 4, Điều 28 Luật BHXH năm 2024 quy định: Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, cơ quan BHXH có trách nhiệm cấp sổ BHXH. Trường hợp không cấp sổ BHXH thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Bổ sung các quy định cụ thể về trợ cấp hưu trí xã hội cho người không có lương hưu
Luật BHXH năm 2024 đã dành một chương riêng (chương III) để quy định cụ thể về trợ cấp hưu trí xã hội. Quy định này trên cơ sở kế thừa và phát triển một phần từ quy định về trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người cao tuổi. Theo đó, đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội được quy định cụ thể tại Điều 21:
1. Công dân Việt Nam được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Từ đủ 75 tuổi trở lên;
b) Không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH hàng tháng, trừ trường hợp khác theo quy định của Chính phủ;
c) Có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
2. Công dân Việt Nam từ đủ 70 đến dưới 75 tuổi thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo và đáp ứng đủ điều kiện quy định tại điểm b và điểm c, khoản 1, Điều này thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Mức trợ cấp hưu trí xã hội hàng tháng do Chính phủ quy định phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ. Định kỳ 3 năm, Chính phủ rà soát, xem xét việc điều chỉnh mức trợ cấp hưu trí xã hội. Tùy theo điều kiện KT-XH, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
4. Bổ sung quyền thụ hưởng chế độ ốm đau, thai sản đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Được quy định cụ thể tại các mục trong Chương V, Luật BHXH năm 2024 đã chính thức bổ sung quyền thụ hưởng chế độ ốm đau, thai sản đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thay vì chỉ hưởng hai chế độ là hưu trí và tử tuất như Luật BHXH hiện hành.
Bên cạnh đó, Luật BHXH năm 2024 còn quy định người đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ thai sản: Cụ thể theo quy định tại Điều 95 về trợ cấp thai sản thì mức trợ cấp thai sản là 2 triệu đồng cho mỗi con được sinh ra và mỗi thai từ 22 tuần trở lên chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ. LĐ nữ là người dân tộc thiểu số hoặc LĐ nữ là người dân tộc Kinh có chồng là người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo khi sinh con còn được hưởng chính sách hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ. Ngân sách nhà nước bảo đảm thực hiện quy định, NLĐ không phải đóng thêm so với quy định hiện hành. Chính phủ quyết định điều chỉnh mức trợ cấp thai sản phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.
5. Trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ đau ốm từ 14 ngày làm việc trở lên vẫn phải đóng BHXH
Theo Điều 33 quy định về mức đóng, phương thức và thời hạn đóng BHXH bắt buộc của NLĐ. Trường hợp trong 6 tháng đầu làm việc hoặc trong tháng đầu trở lại làm việc mà NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên thì vẫn phải đóng BHXH của tháng đó.
6. Giảm điều kiện về số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu hàng tháng từ 20 năm xuống 15 năm
Đối với BHXH bắt buộc, tại Điều 64 Luật BHXH năm 2024 quy định giảm điều kiện về số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu hàng tháng từ 20 năm xuống 15 năm.
Đối với BHXH tự nguyện, Điều 98 quy định người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại khoản 2, mục 2 và có thời gian đóng BHXH từ đủ 15 năm trở lên.
Theo đó, công dân Việt Nam đủ tuổi nghỉ hưu nhưng thời gian đóng BHXH chưa đủ 15 năm để hưởng lương hưu và cũng chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, nếu không hưởng BHXH một lần, không bảo lưu mà có yêu cầu thì được hưởng trợ cấp hàng tháng từ chính khoản đóng của mình.
Mức trợ cấp hàng tháng thấp nhất bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội. Thời gian hưởng, mức hưởng trợ cấp hàng tháng được xác định căn cứ vào thời gian đóng, căn cứ đóng BHXH của NLĐ. Trong thời gian hưởng trợ cấp hàng tháng, NLĐ được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế (BHYT); khi chết, thân nhân được hưởng trợ cấp một lần cho những tháng chưa nhận và được hưởng một lần trợ cấp mai táng nếu đủ điều kiện.
7. Bổ sung quy định nhằm gia tăng quyền lợi, tăng tính hấp dẫn, khuyến khích NLĐ bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần
Luật BHXH năm 2024 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng gia tăng quyền lợi, tính hấp dẫn, khuyến khích NLĐ bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần. NLĐ đã chấm dứt tham gia BHXH mà có đề nghị thì hưởng BHXH một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Đủ tuổi hưởng lương hưu mà chưa đủ 15 năm đóng BHXH.
b. Ra nước ngoài để định cư.
c. Người đang mắc một trong những bệnh: Ung thư, bại liệt, xơ gan mất bù, lao nặng, AIDS.
d. Người có mức suy giảm khả năng LĐ từ 81% trở lên, người khuyết tật đặc biệt nặng.
e. NLĐ có thời gian đóng BHXH trước ngày 01/7/2025, sau 12 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà cũng không tham gia BHXH tự nguyện và có thời gian đóng BHXH chưa đủ 20 năm.
Như vậy, đối với người bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01/7/2025 trở đi thì sẽ giải quyết BHXH một lần trong các trường hợp nêu trên.
NLĐ không hưởng BHXH một lần mà bảo lưu thời gian đóng để tiếp tục tham gia thì có cơ hội được thụ hưởng các quyền lợi cao hơn: Khi tiếp tục tham gia được hưởng các chế độ với mức hưởng cao hơn; được hưởng lương hưu với điều kiện dễ dàng hơn; trong thời gian hưởng lương hưu được quỹ BHXH đóng BHYT; được hưởng trợ cấp hàng tháng khi không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; trong thời gian hưởng trợ cấp hàng tháng được hưởng BHYT do ngân sách nhà nước đảm bảo.
8. Quy định cụ thể về “mức tham chiếu” thay cho “mức lương cơ sở” để tính mức đóng, mức hưởng một số chế độ BHXH
Mức tham chiếu là mức tiền dùng để tính mức đóng, mức hưởng một số chế độ BHXH trong Luật này do Chính phủ quyết định. Mức tham chiếu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế, phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và quỹ BHXH. Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thấp nhất bằng mức tham chiếu và cao nhất bằng 20 lần mức tham chiếu tại thời điểm đóng.
Khoản 13, Điều 141 Luật BHXH năm 2024 quy định: Khi chưa bãi bỏ mức lương cơ sở thì mức tham chiếu quy định tại Luật này bằng mức lương cơ sở. Tại thời điểm mức lương cơ sở bị bãi bỏ thì mức tham chiếu không thấp hơn mức lương cơ sở đó.
9. Quy định rõ về quản lý thu, đóng BHXH
Nhằm tăng cường tính tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ, Luật BHXH năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung cụ thể hơn về quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với BHXH và tổ chức thực hiện BHXH; trợ cấp hưu trí xã hội; đăng ký tham gia và quản lý thu, đóng BHXH; các chế độ, chính sách BHXH bắt buộc, tự nguyện; quỹ BHXH; bảo hiểm hưu trí bổ sung; khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về BHXH; quản lý nhà nước về BHXH. Đặc biệt là các quy định về quản lý thu, đóng BHXH; làm rõ nội hàm và việc xử lý hành vi chậm đóng và trốn đóng BHXH.
10. Quy định giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH
Luật BHXH năm 2024 tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người tham gia và thụ hưởng quyền lợi BHXH qua việc bổ sung quy định giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH; điều chỉnh, cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục thực hiện BHXH.
Ngoài ra, Luật BHXH năm 2024 bổ sung các quy định nhằm bảo đảm tốt hơn quyền tham gia và thụ hưởng BHXH đối với NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và NLĐ nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam: Thông qua việc bổ sung quy định trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, có quy định về thời gian tham gia BHXH của NLĐ ở Việt Nam và ở nước ngoài được tính để xét điều kiện hưởng chế độ BHXH.
Luật cũng quy định những trường hợp chuyển tiếp tại Điều 141, cụ thể:
(1) Người đang hưởng trợ cấp mất sức LĐ, trợ cấp tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tuất hàng tháng, trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc, trợ cấp hàng tháng đối với công nhân cao su và người đang hưởng trợ cấp hàng tháng sau khi đã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức LĐ được điều chỉnh mức hưởng theo quy định của Chính phủ;
(2) Người bị đình chỉ, tạm dừng hưởng BHXH do chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo trước ngày 01/01/2016 thì thực hiện theo quy định của pháp luật về BHXH tại thời điểm bị đình chỉ, tạm dừng;
(3) NLĐ đã có thời gian công tác và tham gia BHXH trước ngày 01/01/1995 tại nơi có phụ cấp khu vực, NLĐ đã có thời gian đóng BHXH gồm phụ cấp khu vực trước ngày 01/01/2007 thì được hưởng trợ cấp khu vực một lần khi giải quyết hưởng lương hưu hoặc hưởng BHXH một lần hoặc hưởng chế độ tử tuất;
(4) Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức LĐ, trợ cấp tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp hàng tháng mà đồng thời đang hưởng phụ cấp khu vực hàng tháng tại nơi thường trú có phụ cấp khu vực thì được tiếp tục hưởng phụ cấp khu vực theo mức đang hưởng. Khi thay đổi nơi thường trú thì việc xác định hưởng phụ cấp khu vực thực hiện theo quy định của Chính phủ;
(5) Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà NLĐ đang nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành hoặc đang nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật số 58/2014/QH13 thì tiếp tục thực hiện đến hết thời hạn đã được giải quyết;
(6) Người đang hưởng trợ cấp mất sức LĐ, đang hưởng trợ cấp hàng tháng sau khi đã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức LĐ, đang hưởng trợ cấp hàng tháng đối với công nhân cao su, đang hưởng trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc khi chết thì thân nhân được giải quyết chế độ tử tuất theo quy định của Chính phủ;
(7) NLĐ có thời gian làm việc trong khu vực Nhà nước trước ngày 01/01/1995 thì thời gian này được tính để hưởng BHXH theo quy định của Chính phủ;
(8) Hàng năm, Nhà nước chuyển từ ngân sách một khoản kinh phí vào quỹ BHXH để bảo đảm trả đủ lương hưu, trợ cấp BHXH đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH trước ngày 01/01/1995;
(9) Người tham gia BHXH tự nguyện trước ngày 01/01/2021 và đủ 20 năm đóng BHXH tự nguyện trở lên thì được hưởng lương hưu khi đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ, trừ trường hợp NLĐ có nguyện vọng hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 98 của Luật này;
(10) NLĐ có từ đủ 15 năm đóng BHXH trở lên và có văn bản của cơ quan BHXH xác nhận về việc chờ đủ điều kiện về tuổi đời để hưởng lương hưu được quy định tại Nghị định số 12/CP, ngày 26/01/1995 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 01/2003/NĐ-CP, ngày 09/01/2003 của Chính phủ thì được hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. Cán bộ xã thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định số 09/1998/NĐ-CP, ngày 23/01/1998 của Chính phủ đã có quyết định hoặc giấy chứng nhận chờ đủ điều kiện về tuổi đời để hưởng trợ cấp hàng tháng của cơ quan BHXH thì được hưởng trợ cấp hàng tháng khi nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi;
(11) Đối tượng quy định tại điểm a, b, c, d, đ, g và i, khoản 1, Điều 2 của Luật này đã tham gia BHXH trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà có thời gian đóng BHXH bắt buộc từ đủ 20 năm trở lên thì mức lương hưu hàng tháng thấp nhất bằng mức tham chiếu;
(12) Đối với số tiền BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp mà người sử dụng LĐ có trách nhiệm đóng theo quy định của Luật số 58/2014/QH13, Luật Việc làm số 38/2013/QH13 nhưng đến hết ngày 30/6/2025 mà không đóng hoặc không đóng đầy đủ thì được xử lý theo quy định về chậm đóng, trốn đóng của Luật này;
(13) Khi chưa bãi bỏ mức lương cơ sở thì mức tham chiếu quy định tại Luật này bằng mức lương cơ sở. Tại thời điểm mức lương cơ sở bị bãi bỏ thì mức tham chiếu không thấp hơn mức lương cơ sở đó;
(14) Văn bản ủy quyền cho người khác nhận lương hưu, trợ cấp BHXH và chế độ khác theo quy định của Luật số 58/2014/QH13 được tiếp tục thực hiện đến hết ngày 30/6/2026./.
Kiến Quốc