Tiếng Việt | English

03/09/2017 - 19:41

Như con chim doóc doóc

Chim doóc doóc lại kêu dưới mé sông, nghe buồn quá! Mùa này, chúng kéo bầy về đây ăn lúa, túm tụm trên những đọt bạch đàn cao chót vót. Hở chút là nó sà xuống sân phơi ăn lúa. Đến khi có tiếng người đuổi...

Hồi đó, má hay ru chị Hai:
“U... a...
Con chim doóc doóc đậu đọt
bạch đàn
Sáng, trưa, chiều réo... ờ... dậy làng  anh ơi...”

Bây giờ, chị lấy ra ru lại thằng cu, con chị. Thằng nhỏ đáng yêu với cái lúm đồng tiền mà chị tự hào khoe giống hệt chồng mình, cười có duyên hết sức. Mỗi lần nhìn con ngủ, chị lại săm soi cái đồng tiền ấy, với ánh nhìn vừa âu yếm, vừa yêu thương mà cũng đầy xót xa. Nghe nói, chồng chị vẫn chưa về nhà!

Chim doóc doóc lại kêu dưới mé sông, nghe buồn quá! Mùa này, chúng kéo bầy về đây ăn lúa, túm tụm trên những đọt bạch đàn cao chót vót. Hở chút là nó sà xuống sân phơi ăn lúa. Đến khi có tiếng người đuổi, tiếng vỗ tay bốp bốp, rồi “xuỵt xuỵt”, chúng mới đập cánh bay lên trên những đọt bạch đàn kia. Có lần, chị hai ví von, bầy chim doóc doóc ùa xuống như một đám lá rụng và bay lên như một đội kèn hơi. Những lúc giật mình, chúng kêu vang “doóc doóc... doóc doóc...”, đập cánh làm chao đảo cả mấy nhánh bạch đàn.
Ngoại hay kể, số con chim doóc doóc tha phương, đập cánh cả đời từ đồng này đến đồng kia. Cái tiếng “doóc doóc” như than vãn nhớ quê,

Minh họa: Internet

- Ủa, quê nó ở đâu vậy ngoại? - Tôi thắc mắc.

- In như là ở trong rừng - Ngoại móm mém.

Bà Bảy thì rõ ràng hơn:

- Ở dưới U Minh lận. Cái loài lạ hết sức lạ, ở đâu không đẻ mà đẻ tận trong rừng tràm, mà rừng U Minh mới chịu. Tổ của nó kín dữ lắm, nó giấu kỹ, hiếm ai thấy được.

Chim doóc doóc lại kêu dưới mé sông. Ngoại nhìn bà Bảy, rầu như chính đôi mắt của ngoại:

- Lúa trổ vàng đồng, cắt gần hết, doóc doóc cũng về cả tháng rồi mà sao...

Ngoại bỏ câu nói lấp lửng, chép miệng nhìn sang chị Hai. Tôi thấy mặt chị buồn rười rượi, rồi chị lặng lẽ cúi xuống ngắm thằng cu. Tôi nghe tiếng ai thở dài.

Mùa mưa năm đó, chim doóc doóc về rừng làm tổ. Vậy mà xóm vẫn cứ ồn ào, dù không nghe một tiếng doóc doóc nào cả. Trong xóm, người già, người trẻ háo hức mừng đám cưới. Bên này, một vài người lăng xăng đốn chuối làm cổng cưới, treo đầy dây đủng đỉnh. Bên kia, trai làng lúp xúp mượn bàn ghế, í ới gọi nhau. Sau nhà, mấy bà, mấy má đang làm gà, làm vịt. Ngoài hè, ông Tư và vài người đàn ông khác làm thịt heo, lũ trẻ con chí chóe rượt nhau.

- Tí, kiếm chị Hai mày coi, biểu nó nhanh về sửa soạn, đâu không thấy mặt mũi gì hết?

Tôi dạ. Thằng Tí là tôi. Ba chân bốn cẳng, tôi chạy ù đi tìm chị Hai, chị là cô dâu mà đi đâu không biết. Tôi chạy một mạch ra bến sông, thấy chị gục trên vai người đàn ông, nức nở. Người này tôi biết, ổng đâu phải anh Thanh, đâu phải là chú rể. Tôi cố tình la lớn:

- Chị Hai, má kêu chị về!

Hai người cùng giật mình quay lại, thấy tôi, họ càng hoảng hốt. Người đàn ông kia đẩy chị Hai ra, quay sang nhìn chị tôi cười buồn rồi lặng lẽ đi về hướng mặt trời lặn.

Chị Hai tôi thẫn thờ một lát cũng đứng dậy, xuống cầu vốc nước rửa mặt rồi nắm tay tôi đi về. Lúc đi, chị có thì thầm vào tai tôi một lời khẩn cầu. Tôi tội nghiệp, chấp nhận. Thấy mắt chị ngấn lệ chực trào, chị bảo sẽ quên người ấy nhanh thôi!

Suốt mấy ngày đám cưới, tôi để ý nhưng không thấy người đàn ông đó. Cái bữa đưa dâu bằng tắc ráng qua bên kia sông, tôi thoáng thấy anh một lần duy nhất và không còn gặp lại nữa. Thôi, vậy cũng tốt!

Chị Hai lúc nào cũng cười cười, nói nói. Mấy lần tôi qua chơi, anh Thanh kêu chị đổ bánh bò cho tôi ăn. Anh nói tôi ăn bánh bò như chim doóc doóc ăn lúa. Anh Thanh nói, chị Hai tôi đáng yêu như chim doóc doóc. Chị cười, thầm trong miệng giả giọng kêu hai tiếng doóc doóc.

Hôm doóc doóc ngoài sân rục rịch bay đi nơi khác tìm lúa, anh Thanh cũng nôn nao cho một chuyến đi dài. Anh nói theo đám thợ cắt lúa xuống miệt dưới, kiếm mớ tiền về làm ăn. Năm đó, tôi mười lăm tuổi, anh rủ tôi đi theo ghe chú Thống xuống miệt dưới cắt lúa mướn. Anh mua bầy gà về cho chị nuôi, sắp xếp mọi thứ rồi lên ghe, đi về nơi bạch đàn dậy tiếng con chim doóc doóc, nơi mồ hôi của anh rơi ướt đất đồng.

Anh ngóng hoài, như doóc doóc nhớ rừng dõi mắt trên cây. Nhớ chị nhưng anh không nói. Như sáng hôm nay, anh vẫn tươi rói ra đồng, hăng hái cắt hết đám lúa này đến đám lúa khác. Cắt được công đất thì chủ ruộng cho giạ rưỡi lúa. Làm quần quật

cũng có cái đem về nhà cho vợ. Anh Thanh mừng lắm, hết mùa, anh tất tả về nhà. Vừa đến bến sông, chị chạy ù ra, ứa nước mắt:

- Em có bầu!

Anh ngạc nhiên:
- Bao lâu?

- Gần ba tháng.

- Anh sắp làm cha rồi, mọi người ơi, tôi sắp làm cha rồi!

Anh quyết định ở nhà, không đi cắt lúa mướn nữa. Anh cưng vợ như trứng, cái gì cũng: “Để anh, để anh”.

Bụng chị tôi ngày càng to, tôi càng nghe xóm giềng xầm xì. Họ nói, chị lăng nhăng với người khác. Họ tả về người đó, tôi nghe giống kẻ ngồi bên bờ sông ngày đám cưới chị. Nhưng tôi tin chị Hai, chị nói là đã quên người đó rồi mà! Tôi giận những ai hay liếc mắt nói xấu chị. Anh Thanh cũng vậy.

Anh nói vợ anh là con chim doóc doóc đáng yêu. Và chim doóc doóc thì rất thủy chung. Cả đời chúng sống cặp với nhau, chẳng bao giờ phụ bạc nhau. Nghe xong, chị Hai tôi mặt đầy nước mắt, chị tôi dễ khóc!

Đứa bé được sinh ra, người ta tiếp tục xì xầm nó không giống anh Thanh. Chị Hai tôi lại bưng mặt khóc.

Anh động viên:

- Đâu có, con có cái đồng tiền kìa, đẹp trai y hệt anh mà! - Anh chỉ tay lên gần khóe miệng mình, lắc lư đầu làm trò.

Chị Hai tôi phì cười, chị gật đầu nhắc lại lời anh. Và chị nhìn anh bằng ánh mắt tràn đầy yêu thương.

Hết mấy tháng ở cữ của chị, anh Thanh lại khăn gói theo ghe chú Thống. Lần này, tôi không đi, tôi phải tránh mặt anh mấy hôm để được ở lại nhà. Anh lại đi theo ghe cắt lúa mướn. Anh đi, nhưng đi chuyến này, anh không về nữa dù doóc doóc cứ đến mùa là réo, dù chị Hai cứ nhắn gởi tìm người.

Xóm lại được dịp đồn ầm lên, họ nói chồng chị biết hết rồi nên buồn, bỏ đi biệt xứ. Có người ác miệng “đáng đời” làm chị chết lặng. Chị tôi ngậm đắng, nuốt cay mà nuôi con. Gặp đám thợ cắt lúa nào cũng hỏi thăm anh. Tội nghiệp chị, hễ thấy bóng chim doóc doóc là chị lại nôn nao. Đến khi con chim doóc doóc cuối cùng cũng bay đi xứ khác, chị lại quặn thắt.

Có lần, chị rủ tôi bắt chim doóc doóc, dồn chúng vào một cái lồng nhỏ. Chị viết đúng năm mươi lá thư, buộc vào chân chim rồi thả chúng ra. Chị mong đám chim bay đến cánh đồng anh Thanh cắt lúa. Thấy thư, anh sẽ về. Nhưng con chim doóc doóc nhỏ quá, sao chở nổi những mong ngóng của chị được, chị Hai!

Chờ hoài không nghe được tin gì của chồng, chị sốt ruột bán hết nhà cửa, vườn mận cùng bầy gà, mua chiếc ghe sống kiếp thương hồ, vừa bán, vừa hỏi thăm tin chồng. Cả năm, chị chỉ về hai lần, về cùng bầy doóc doóc.

- Mày là thằng Tí, phải không? Thằng Tí, trời ơi gặp được mày, tao mừng quá!

- Ủa, chú Thống!

- Ừ, mấy năm nay tao tìm mày, nghe nói nhà mày dời nơi khác, tao nản nhưng nghĩ đến chị mày, nghĩ đến thằng Thanh, tao cố tìm. Mày nhắn với chị mày, thằng Thanh không về nữa đâu. Năm đó, cả đám đi cắt lúa ở biên giới. Trước khi đến đó, ghe có ghé lại một cái chợ. Người trong chợ rủ anh mày đi rừng, đốn cây có nhiều tiền hơn. Nó nói đi một lần kiếm tiền rồi về nhà kiếm việc khác làm cho gần vợ, gần con. Nó đi, lâu lắc mà hổng thấy về. Tụi tao cắt lúa xong xuôi hết, nán lại vài bữa đợi nó. Rồi cái ông đi theo nó cũng về, ổng nói, cả đám bị lạc nhau, ổng là người địa phương nên tìm đường về được. Anh mày lạ chỗ, lạc mất rồi mà trên rừng, cọp, beo nhiều dữ lắm!...

- Trời đất, tội cho ảnh, mà càng tội cho chị Hai. Chỉ tìm ảnh mấy năm nay mỏi mòn.

- Đưa cái này cho chị mày, hồi đó, thằng Thanh đi để lại cái này...

Chị ôm cái gói giấy mà chú Thống gởi, khóc nức nở. Cổ họng chị nấc lên từng tiếng. Tay chị run run giở gói giấy ra xem. Bên trong là số tiền anh dành dụm. Và, kìa, một chiếc lông của con chim doóc doóc, anh gửi về nhà. Đau khổ quá, chị càng gào khóc tức tưởi. Tóc chị rũ rượi, dính bệt vào đôi má đẫm nước. Môi chị giật lên bần bật, mếu máo ú ớ không thành lời. Thằng cu thấy mẹ khóc, cũng khóc theo...

Tôi cứ tưởng sau ngày đó, chị bán ghe, theo tôi về nhà. Nhưng không, chị không tin chồng mình chết, mà nếu có chết, chị cũng phải tìm cho ra xác anh mà đem về chôn cất ở đất nhà. Chị Hai nổ máy, quay ghe ngược lên biên giới.

Tôi lại nghe tiếng chim doóc doóc kêu, mùa lúa chín lại về. Tôi nghĩ đến loài chim kỳ lạ này, chúng rất giỏi chờ đợi, chờ ngày được quay về tổ, cũng rất giỏi tìm đường, tha phương mà, phải nhớ đường mới được

chớ!.../.

Võ Đăng Khoa 

Chia sẻ bài viết