Tiếng Việt | English

05/06/2023 - 09:53

Bảo vệ môi trường là bảo vệ nguồn sống

Cuộc sống con người gắn liền với nước sạch và vệ sinh môi trường (VSMT), có nước sạch để sử dụng và bảo đảm VSMT giúp con người tồn tại và phát triển. Vậy làm thế nào để giúp nguồn nước sạch không bị cạn kiệt và bảo đảm môi trường sống, phóng viên (PV) Báo Long An có cuộc phỏng vấn Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh - bác sĩ (BS) CKII Huỳnh Hữu Dũng.

Sử dụng nước sạch giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nông thôn

PV: Thưa BS, thực trạng nước sạch và VSMT hiện nay như thế nào?

BS Huỳnh Hữu Dũng: Hiện nay, môi trường sống của chúng ta bị ô nhiễm, chủ yếu do hoạt động của con người gây ra. Sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, tình trạng khai thác, sử dụng nước một cách bừa bãi, thiếu quy hoạch đã khiến 2,1 tỉ người trên thế giới không có nước sạch để sử dụng. Dự báo đến năm 2050, cứ 5 người trên thế giới sẽ có trên 2 người đối mặt với tình trạng khan hiếm nước sạch. Khoảng 80% lượng nước thải toàn cầu xả ra môi trường mà không qua bất kỳ biện pháp xử lý nào để loại bỏ ô nhiễm. Trong số 20% được xử lý, chỉ một phần rất nhỏ được tái sử dụng trực tiếp.

PV: Đối với tỉnh ta, vấn đề nước sạch và VSMT ra sao, thưa BS?

BS Huỳnh Hữu Dũng: Trong những năm qua, việc thực hiện các Chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch và VSMT đã mang lại hiệu quả đáng kể, góp phần cải thiện đời sống người dân. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh (HVS) của tỉnh ta tăng từ mức 50% năm 2008 lên 95% năm 2022. Hộ gia đình sử dụng nước HVS năm 2008 là 88,5%, đến năm 2022 đạt 99,5%. Tại khu vực nông thôn, hộ dân sử dụng nhà tắm HVS là 92,29%, hộ chăn nuôi HVS đạt 81,41%, tỷ lệ xử lý rác hộ gia đình HVS là 90,23%, sử dụng nước sạch là 66%.

Trạm cấp nước ở nông thôn giúp người dân có nước sạch sử dụng

Điều đáng mừng, năm 2022, toàn tỉnh kiểm tra 799 sơ sở cung cấp nước trên tổng số 1.345 cơ sở đang được quản lý, có 84,6% cơ sở đạt yêu cầu về các tiêu chuẩn nước sạch, nước HVS, trong khi tỷ lệ này năm 2021 chỉ có 36%.

PV: Những khó khăn mà chúng ta đang phải đối mặt là gì, thưa BS?

BS Huỳnh Hữu Dũng: Mặc dù đã đạt một số kết quả khả quan, nhưng hiện tại, chúng ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, hạn chế.

Đó là tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước HVS tuy cao nhưng chưa bền vững, tỷ lệ này chỉ mới đánh giá được khả năng tiếp cận, chưa đánh giá về mức độ sử dụng.

Tuy tỷ lệ nước sạch tăng lên nhưng vẫn còn thiếu nước cục bộ ở một số địa phương, đặc biệt là khu vực dân cư sống phân tán, các xã vùng sâu, vùng xa khu vực Đồng Tháp Mười của tỉnh vẫn còn nhiều thách thức.

Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nhà tiêu HVS ngày càng tăng, tuy nhiên, một số ít địa phương còn thấp dưới 70% nên công tác truyền thông, vận động cần có nhiều thời gian và kinh phí.

PV: Nguyên nhân của những khó khăn nêu trên là gì, thưa BS?

BS Huỳnh Hữu Dũng: Qua quá trình triển khai cho thấy, công tác truyền thông còn gặp nhiều khó khăn, các cấp chính quyền chưa chủ động bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương cho việc triển khai công tác truyền thông về vệ sinh cá nhân, VSMT và nước sạch nông thôn, chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của nước sạch VSMT, chưa xem đây là nhiệm vụ ưu tiên trong phát triển kinh tế của địa phương.

Thứ hai là việc huy động sự hỗ trợ để cải thiện điều kiện vệ sinh chưa đáp ứng được nhu cầu. Đội ngũ thực hiện công tác truyền thông về nước sạch và vệ sinh còn hạn chế về năng lực, phương tiện truyền thông còn thiếu.

Thứ ba là kiến thức, nhận thức thực hành về vệ sinh cá nhân, VSMT và sử dụng nước sạch nông thôn tồn tại khoảng cách rất lớn từ kiến thức tới thực hành, đặc biệt ở các nhóm đối tượng là người nghèo, người dân ở vùng nông thôn, vùng kinh tế khó khăn. Rửa tay với xà phòng chưa thành thói quen, thực hành vệ sinh tại hộ gia đình về xử lý rác còn nhiều hạn chế.

PV: Có những giải pháp nào để đủ lượng nước sạch cho nhu cầu của con người trong khi nguồn nước tự nhiên ngày càng cạn kiệt, khan hiếm và bị ô nhiễm, thưa BS?

BS Huỳnh Hữu Dũng: Biện pháp là phải tái chế để có đủ nguồn nước HVS. Việc tái chế nước thải từ nhà tắm, máy giặt, bể bơi và sản xuất công nghiệp,... nếu được thực hiện rộng rãi có thể giúp tiết kiệm nguồn nước và giảm thải độc hại ra môi trường. Nước tái chế có thể được sử dụng để cung cấp cho nhà vệ sinh, làm nước tưới cho cây xanh, rửa sạch đường hoặc các cơ sở công nghiệp,... trả lại môi trường tự nhiên hoặc thậm chí biến thành nước uống.

Song song với việc nghiên cứu, phát triển, đầu tư nâng cấp hệ thống tái chế nước thải thành nước sạch thì vấn đề quản lý, vận hành, khai thác bền vững công trình cấp nước và vệ sinh nông thôn phải được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, mỗi người dân cần có ý thức trong việc bảo vệ nguồn nước từ những hành động nhỏ mỗi ngày như không xả rác thải trực tiếp xuống sông, hồ, biển; hạn chế sử dụng các loại hóa chất tẩy rửa mạnh; tránh dùng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp.

PV: Xin cảm ơn BS!./.

Thanh Bình

Chia sẻ bài viết