Tiếng Việt | English

09/12/2015 - 16:08

Tài hùng biện của luật sư Nguyễn Hữu Thọ

Luật sư (LS) Nguyễn Hữu Thọ không chỉ là nhà yêu nước, nhà ngoại giao và chính trị gia lỗi lạc, mà ông còn là một LS rất có uy tín ở Sài Gòn trước đây. Sau đây là tóm tắt một vụ án tiêu biểu được LS bào chữa qua hồi ức của tác giả Hoàng Xuân Bình(*).

 

(Hàng đầu, từ trái qua) bà Nguyễn Thị Bình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và LS.Nguyễn Hữu Thọ (áo sơ mi trắng) năm 1980 (Ảnh tư liệu của Xưa&Nay)

Vào tháng 5-1947, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ (UBKCHCNB) triệu tập Đại hội thành lập Chi đoàn Sinh viên Nam bộ. Đối tượng được mời gồm các sinh viên, trí thức là cán bộ quân dân chính đảng thuộc 3 khu 7, 8, 9 và UBKCHCNB, do LS. Phạm Ngọc Thuần - Phó Chủ tịch UBKCHCNB chủ trì.

Kỹ sư (KS) canh nông Trương Công Phòng - Trưởng ban liên lạc quân sự của Bộ Tư lệnh (BTL) khu 9 và bác sĩ (BS) Hoàng Xuân Bình, Trợ lý Ban tham mưu BTL khu 9, được cử đi dự.

Sau đại hội, trên đường về BTL khu, cả 2 bị lọt ổ phục kích của địch và bị bắt giải về Phòng Nhì Pháp. Tại đây, sĩ quan quân pháp địch lập hồ sơ vụ án, đưa cả 2 ra tòa án binh thường trực (Tribunal militaire permanent) ở Sài Gòn để xét xử.

Hay tin, nữ LS. Bùi Thị Cẩm (vợ LS Phạm Ngọc Thuần) tức tốc đi Sài Gòn nhờ Hội Nhân quyền can thiệp và Luật sư đoàn giúp. Qua đó, KS Phòng được LS Phan Kiến Khương bảo vệ; BS Bình được LS Nguyễn Hữu Thọ bảo vệ. LS Nguyễn Hữu Thọ lúc đó là tráng niên khoảng ngoài 30 tuổi, vóc dáng cao lớn, khỏe mạnh; mặt mũi khôi ngô, mắt sáng, thông minh, cương trực và đôn hậu.

KS Phòng và BS Bình đều bị địch khép tội “phản quốc”. Nội dung điều luật này là “trừng phạt người dân của một nước hay lãnh thổ thuộc chủ quyền của Pháp, đã có những hoạt động có tính chất phá hoại tinh thần của quân đội và của quốc gia, gây tổn hại cho quốc phòng” và có khung hình phạt từ 5 năm khổ sai đến tử hình!

Phiên tòa mở ngày 25-5-1948, chủ tọa là đại tá Quân pháp Blandin de Chaslin. Có 4 hội thẩm và 1 Ủy viên Chính phủ giữ quyền công tố, đều là sĩ quan quân đội viễn chinh Pháp. Bảo vệ cho 2 bị cáo, ngoài 2 LS của ta còn có 2 LS Pháp do tòa án chỉ định.

Vào phần luận tội, đại diện Chính phủ Pháp là đại úy Avazeri cáo buộc BS Bình: “Bị cáo, suốt từ 1945 đã cầm súng chống lại nước Pháp…; chiến đấu trên tất cả chiến trường Đông Dương…; không chỉ giới hạn các hoạt động của mình trong lĩnh vực quân sự, mà còn hoạt động chính trị, tình báo, ngoại giao khi làm sĩ quan cận vệ do Việt Minh đặt bên cạnh cựu hoàng Bảo Đại và làm trợ lý tình báo cho Hoàng thân Lào Souphanouvong. Do các lẽ đó, tôi đề nghị quý tòa áp dụng điều khoản 73A, đoạn thứ 3, trừng phạt tội “phản quốc”.

Với KS Phòng, y cáo buộc “… bị cáo như con nhện nằm ở trung tâm mạng lưới bao phủ khắp Đồng bằng sông Cửu Long. Mặc dù không trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu nhưng bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm về các tổn thất nhân mạng, vì nếu giao thông liên lạc không hoạt động thì đã không xảy ra các cuộc phục kích, tập kích vào các đơn vị, các đồn của Pháp” và cũng khép tội “phản quốc” như BS Bình.

Lập luận của Avazeri đã bị LS Phan Kiến Khương bẻ gãy vì làm giao thông liên lạc không thể coi là vũ trang để nổi dậy “phản quốc” được…

Đến lượt LS Nguyễn Hữu Thọ bào chữa cho bị cáo Hoàng Xuân Bình: “… khép thân chủ của tôi vào tội danh “phản quốc”, bản cáo trạng đã phạm phải một sai lầm cơ bản. Thật là một điều tất nhiên mà ai cũng hiểu được, luật pháp của nước Pháp chỉ có thể truy tố một người về tội “phản quốc” nếu bị cáo đó là người dân mang quốc tịch Pháp. Thân chủ của tôi là công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập ngày 2-9-1945, chấm dứt chế độ thuộc địa mà Pháp đã dựng lên trên bán đảo Đông Dương. Tình trạng đó đã giải phóng mọi người dân Việt Nam khỏi tư cách là “dân một nước thuộc chủ quyền” của nước Pháp. Tiếp sau đó, theo lời mời của Chính phủ nước Cộng hòa Pháp, vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã qua thăm chính thức Pháp và Chính phủ Paris đã tổ chức cuộc đón tiếp với nghi lễ dành cho một nguyên thủ quốc gia nước ngoài. Điều đó có giá trị như một sự công nhận lẫn nhau giữa 2 chính phủ. Việc Tòa án Pháp truy tố một công dân nước ngoài trên lãnh thổ quê hương của họ, rõ ràng là một quyết định vô giá trị. Một cớ mà có thể có người viện ra để bào chữa cho quyết định sai lầm đó: Chính phủ Pháp không còn công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh nữa, nên Việt Nam lại được coi là “thuộc chủ quyền của Pháp”, cho dù đúng cũng không thể bắt buộc nhân dân Việt Nam không được làm bổn phận của họ đối với Tổ quốc và Chính phủ mà họ đã bầu lên. Như vậy, thân chủ của tôi đã thi hành trong danh dự nghĩa vụ công dân của mình, không thể bị truy tố với tội danh “phản quốc”. Tôi đề nghị quý tòa quyết định miễn tố và trả tự do ngay cho bị cáo.

2 LS Pháp bào chữa theo chỉ định của tòa đều “kêu gọi sự khoan hồng của quý tòa”. 2 bị cáo được nói lời sau cùng trước khi tòa vào nghị án đều cho việc làm của mình là chính nghĩa. Bị cáo Bình không đồng ý với lời “xin tòa khoan hồng” của 2 LS Pháp, mà nói “Tôi xác nhận: Tất cả các điều mà bản cáo trạng đã nêu đều đúng sự thực và tôi xin chịu trách nhiệm vì tôi đã cân nhắc một cách tỉnh táo, thực hiện một cách tự nguyện với lương tâm trong sáng, không có bất kỳ một sự áp đặt nào từ người khác. Điều ân hận duy nhất của tôi hôm nay là đã để cho sớm bị loại khỏi vòng chiến đấu mà chưa làm được gì có ích cho Tổ quốc tôi. Nếu được làm lại cuộc đời trong bối cảnh như tôi đã trải qua, tôi sẽ làm y như vừa qua, và có lẽ làm tốt hơn lần đầu. Tôi hoàn toàn không nuôi một ảo vọng nào về bản án mà tòa sẽ tuyên. Tôi chỉ xin mỗi vị thẩm phán và chánh án, trước khi bỏ thăm về mức án, hãy tự trả lời cho lương tâm mình: “Nếu các vị ở vào tình cảnh của chúng tôi, các vị sẽ là Résistants hay Collabos?”.

Trước đó, KS Phòng cũng đã hùng hồn: “Nếu một cường quốc nào khác tới xâm lược, chúng tôi cũng quyết tâm kháng chiến như tổ tiên chúng tôi đã làm. Việc chúng tôi làm hiện nay là những gì người Pháp yêu nước đã làm trong những năm đen tối 1940-1944” (tức chống lại quân xâm lược Đức).

Cuối cùng, viên Ủy viên Chính phủ Avazeri đã phải xin rút bỏ tội danh “phản quốc” đổi thành tội danh “hoạt động lật đổ”. Với tội danh này bị cáo khỏi phải tội khổ sai hay tử hình.

Qua vụ án này cho thấy tài năng và lòng yêu nước của 2 vị LS bảo vệ cho 2 bị cáo vì hoạt động yêu nước mà vướng vòng lao lý của thực dân Pháp. Trước khi vào phiên tòa, LS Thọ đã dặn “thân chủ”: Cứ nhận hết các cáo buộc của tòa, không xin xỏ gì cả. Mục đích là, trước đông đảo quần chúng dự thính, ta chứng tỏ cho người Pháp thấy “Chiến thuật của ta là dựa vào chánh nghĩa của cuộc kháng chiến, đánh vào lương tâm con người và nói: “Việc chúng tôi làm hiện nay là những gì mà những người ái quốc Pháp đã làm trong những năm đen tối 1940-1944”; “Nếu các vị ở vào tình cảnh của chúng tôi, các vị sẽ là Résistant hay Collabos?” (tức các vị “Kháng chiến hay hợp tác” với quân xâm lược Đức) đã buộc Hội đồng xử án của Pháp phải thức tỉnh./.

Quang Hảo
(*) Xem nguyên văn hồi ức ở Tạp chí Xưa&Nay, số tháng 5-1996.
 

Chia sẻ bài viết


Liên kết hữu ích