Đồng chí Lê Duẩn (áo trắng, ngồi giữa) về lại căn cứ xưa, thăm cơ sở cách mạng ở xã Nhơn Hòa Lập, huyện Mộc Hóa (nay thuộc huyện Tân Thạnh), tháng 3/1978. Người ngồi bên phải đồng chí Lê Duẩn là má Tám (Nguyễn Thị Thay)
Trải qua bề dày lịch sử hình thành, vùng đất Mộc Hóa - Đồng Tháp Mười (ĐTM) trở thành căn cứ địa cách mạng, ghi dấu truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của ông cha ta.
Một vùng đất có bề dày lịch sử
Địa danh ĐTM vẫn là một ẩn số chưa có giải đáp thỏa đáng: Ngọn tháp canh thứ 10 do Thiên hộ Dương dựng lên để canh phòng giặc Pháp (1864-1866)?; Hay ngọn tháp thứ 10 sau 9 tháp khác của vua chúa Khmer dựng lên làm trạm xá?; Trên đường khẩn hoang đầu thế kỷ XVIII, lưu dân người Việt gặp tháp cổ đổ nát nhưng còn vết tích của công trình có 10 bậc thang (kiểu như tam cấp)? Hiện người ta nghiêng về lý giải rằng, đây là tên gọi chung cho toàn vùng “đất bưng”, vùng “trạch” thuộc địa phận tỉnh Định Tường xưa, đã có từ trước và được sử dụng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến của Võ Duy Dương, người Pháp sử dụng chính thức trên Công báo Nam kỳ thuộc Pháp, ngày 17/4/1866.
Nhiều di tích khảo cổ học có thể khẳng định, có con người sinh sống thời tiền sử muộn trên các gò đất phù sa cổ. Điều này cho thấy, nơi đây từng là địa bàn của một nền văn minh Óc Eo. Và, trước khi lưu dân người Việt đến khẩn hoang lập ấp, nơi đây trải qua “giấc ngủ dài” trong sự hoang vắng, không bóng người hàng nhiều thế kỷ mà Châu Đạt Quan - sứ thần Trung Hoa trong Chân Lạp phong thổ ký, thế kỷ XIII, rồi Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục, thế kỷ XVI đã ghi lại.
Trong dòng chảy Nam tiến, do khả năng vật chất, trình độ kỹ thuật và điều kiện nhân lực, ông cha ta đến đây muộn hơn những nơi khác trong tỉnh. Nhưng theo Gia Định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí, đến thời Gia Định phủ (1698-1802), nơi đây gọi là Đầm (Chằm) Mãng Trạch, thuộc dinh Trấn Định, dưới sự thống quản của Gia Định trấn, đã có người buôn bán qua Rạch Chanh, một ít làm ruộng theo lối “đao canh hỏa nậu” ở Bát Đông, giao dịch thổ sản ở bờ sông Bát Chiêng (Kiến Tường).
Sau Bắc Chiêng (bản dịch Gia Định thành thông chí ghi là Bát Chiêng) rồi đến tên gọi Mộc Hóa cũng chưa có lời giải thích thỏa đáng, nhưng chính thức xuất hiện đầu tiên là trên Công báo Nam kỳ thuộc Pháp với tư cách là một đơn vị cấp tổng, tổng Mộc Hóa, năm 1867, sau khi Pháp chiếm các tỉnh miền Tây Nam kỳ, xóa ranh hành chính cũ của Nam triều và thiết lập cơ chế hành chính kiểu tham biện (inspection), đến năm 1916 nâng lên thành quận, thuộc tỉnh Tân An, rồi tỉnh Mộc Hóa (SL. số 21/NV, năm 1956), sau đổi thành tỉnh Kiến Tường (SL. số 143/NV, ngày 20/10/1956 của tổng thống Việt Nam Cộng hòa). Sau Ngày giải phóng miền Nam, tháng 02/1976, tỉnh Kiến Tường cũ trở thành một huyện của tỉnh Long An mới với tên gọi có từ trước là Mộc Hóa, rồi được chia nhỏ sau nhiều lần tách ra lập các huyện mới: Vĩnh Hưng (30/3/1978), Tân Thạnh (19/9/1980), Thạnh Hóa (26/6/1989) và hiện nay là 2 đơn vị hành chính mới: Thị xã Kiến Tường và huyện Mộc Hóa (18/3/2013).
Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử, vùng đất Mộc Hóa - Kiến Tường hình thành là một tiến trình kết tinh của mồ hôi, xương máu, trí tuệ của nhiều thế hệ tiền nhân. Các thế hệ nơi đây có thể vinh dự và tự hào khi sống trên mảnh đất có một bề dày lịch sử như thế.
Ghi dấu truyền thống đánh giặc của cha ông
Ngay từ cuộc chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh, vùng gò nổng rộng lớn Ba Giồng nằm giữa 2 huyện Kiến Đăng và Kiến Hưng, Định Tường từng là nơi tụ nghĩa của đảng Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn.
Là trung tâm ĐTM, giáp Campuchia, Mộc Hóa có vị trí chiến lược tiền tiêu nên từ thời triều Nguyễn đã cho đặt ở đây một đồn lũy để trấn giữ biên cương, gọi là thủ sở Tuyên Oai. Pháp xâm lược, Thiên hộ Dương - Đốc binh Kiều lập căn cứ kháng chiến ở ĐTM, cho xây đồn Tuyên Oai ở Gò Bắc Chiêng (chợ Kiến Tường ngày nay), là một trong những đồn lũy quan trọng nhất của phong trào này những năm 1864-1866, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, góp phần làm cho Mộc Hóa - ĐTM “hội nhập” trọn vẹn hơn vào dòng chảy lịch sử dân tộc. Đây còn là kinh nghiệm đầu tiên về xây dựng căn cứ địa cho hoạt động kháng chiến về sau ở vùng đất bưng biền.
Sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ (tháng 11/1940), lực lượng khởi nghĩa ở Tân An, Chợ Lớn, Gia Định lên khu vực kinh Bo Bo, Mớp Xanh thuộc các làng: Thạnh Lợi, Bình Thành, Bình Hòa (Bắc Thủ Thừa), trấp Rùng Rình (làng Phong Phú, Mộc Hóa) tiếp tục bắt liên lạc với lực lượng của Cai Lậy, Châu Thành (tỉnh Mỹ Tho) và bộ phận nghĩa quân của Chợ Lớn - Gia Định rút lên Truông Mít (Tây Ninh) trở về, thống nhất thành lập căn cứ Mớp Xanh (hay còn gọi căn cứ Bo Bo) trên một địa bàn rộng khoảng 35km, dài 70km, nằm giữa 2 sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, tiếp tục duy trì hoạt động, chuẩn bị khởi nghĩa lần hai. Hoạt động của nghĩa quân sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ ở Căn cứ Mớp Xanh là tiền đề chuẩn bị cho giai đoạn tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Vùng đất này trở thành “chiến khu bưng biền” trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.
Tiền sảnh Bảo tàng Long An có đặt một khẩu thần công nhưng không nhiều người biết nó có một hành trình gắn liền với lịch sử vùng đất Mộc Hóa - ĐTM, do Chi đội 14 Vệ quốc đoàn tìm được ở Đốc Vàng (Đồng Tháp) - vùng căn cứ của nghĩa quân Thiên hộ Dương - Đốc binh Kiều, được gọi là “Cà nông Minh Mạng”.
Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945, quân Pháp nổ súng ở Sài Gòn, báo hiệu cuộc xâm lược nước ta lần hai. Đầu năm 1946, quân Pháp theo sông Vàm Cỏ Tây tiến đánh Mộc Hóa. Đồng chí Trần Văn Trà chỉ đạo Chi đội 14 tổ chức đánh địch tại Vàm rạch Cả Nổ (nay thuộc xã Tân Thành, huyện Mộc Hóa). Khoảng 4 giờ sáng ngày 16/5/1946, đoàn tàu Pháp khoảng 12 chiếc từ Tân An kéo lên Mộc Hóa lọt vào trận địa, khi dừng lại nhổ sào chướng ngại vật để mở đường, khẩu thần công được lệnh làm nhiệm vụ khai hỏa, phát duy nhất trúng mục tiêu làm móp tàu, quân ta đồng loạt nhả đạn. Địch nổ súng loạn xạ, thoát khỏi trận địa về hướng Mộc Hóa. Ta rút lui về kinh Dương Văn Dương an toàn. Đồng chí Lương - pháo thủ (bộ đội Chi đội 14) hy sinh do bị súng thần công giật trúng người, được người dân chôn cất tại chỗ và quy tập về Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Mộc Hóa năm 1978. Khẩu thần công bị nhận chìm tại Vàm Cả Nổ ngay sau trận đánh, sau đó được vớt lên đưa về công binh xưởng ở xã Tân Hòa (thuộc huyện Tân Thạnh ngày nay) vào cuối năm 1946, rồi chôn giấu sau đình chiến (1954). Năm 1959, có người chỉ điểm, địch đào súng lên đưa về quận lỵ Kiến Bình, rồi tỉnh lỵ Kiến Tường, đặt tại công viên chỗ đền thờ Đốc binh Kiều, xây bệ hướng nòng súng ra bờ sông Vàm Cỏ Tây. Đầu năm 1978, Ty Văn hóa - Thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch) tiếp nhận súng, đưa về đặt ở trụ sở UBND tỉnh, sau đó giao Bảo tàng tỉnh lưu giữ cho đến nay.
Đánh giặc trong thời hiện đại bằng súng thần công có lẽ chỉ có ở vùng đất này. Đó là phát súng mở màn 9 năm kháng chiến chống Pháp trên vùng ĐTM anh dũng và có lẽ cũng là tiếng súng cuối cùng của những khẩu thần công lịch sử ở nước ta.
Trước chiến thắng trận Mộc Hóa (18/8/1948), Mộc Hóa từng là một trong những căn cứ địa đầu tiên của Nam bộ. Sau khi Pháp càn vào Bình Hòa (nay thuộc xã Bình Hòa Nam, huyện Đức Huệ), tháng 5/1946, đồng chí Lê Duẩn chỉ thị các cơ quan Xứ ủy, Ủy ban Kháng chiến Nam bộ, Tổng hành dinh Khu 7 và các đơn vị bộ đội rút về vùng Bắc Chan, quận Mộc Hóa (nay thuộc xã Tuyên Thạnh, thị xã Kiến Tường) lập căn cứ, trước khi rút về khu vực kinh Dương Văn Dương (tháng 7/1946), góp phần làm nên một “Việt Bắc miền Nam” - thủ đô kháng chiến lừng danh của Nam bộ thành đồng.
Bề dày truyền thống lịch sử của Mộc Hóa - ĐTM hun đúc nên chiến thắng Mộc Hóa lừng lẫy trong cuộc kháng chiến chống Pháp./.
(còn tiếp)
Bài 2: “Ai đã từng đi qua sông Cửu Long Giang”
ThS. Nguyễn Tấn Quốc