Tiếng Việt | English

30/05/2025 - 11:53

Quảng Trị miền đất lửa anh hùng: Ngọn lửa bất tử giữa thành cổ và dòng vĩ tuyến (Bài 1)

Trong những ngày tháng tư lịch sử, chúng tôi - những người con của Long An, quê hương sáng mãi tám chữ vàng “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc” - có dịp đến với Quảng Trị, mảnh đất “tọa độ lửa” của quá khứ hào hùng, nay vươn mình mạnh mẽ như cây thép gai sau bão lửa. Chuyến đi không chỉ là dịp tưởng nhớ và tri ân các anh hùng liệt sĩ mà còn là hành trình khám phá những trang sử vàng, nơi máu và hoa hòa quyện, để mỗi người không chỉ thêm hiểu mà còn cảm thấu sâu sắc hơn, không chỉ thêm yêu mà còn trân quý từng tấc đất quê hương và không chỉ tự hào mà còn kiêu hãnh về lịch sử vẻ vang, oai hùng, bất khuất như dãy Trường Sơn của dân tộc Việt Nam.

Bài 1: Ngọn lửa bất tử giữa thành cổ và dòng vĩ tuyến

Giữa mạch thời gian chảy mãi, mảnh đất Quảng Trị như một cuốn biên niên sử sống động, nơi từng trang sử đẫm máu và hào hùng hòa quyện cùng niềm tin bất diệt vào tự do, thống nhất. Từ bức tường rêu phong của Thành Cổ, nơi gió heo may vẫn vang vọng lời hịch non sông, đến dáng vóc thanh bình của cầu Hiền Lương bắc ngang vĩ tuyến 17, mỗi bước chân dọc hai bờ sông Thạch Hãn và sông Bến Hải đều khắc họa dấu ấn không thể phai mờ của một dân tộc kiên cường. Hãy cùng lật mở trang sử oai hùng ấy, để cảm nhận sâu sắc sự hy sinh cao cả của bao lớp người đi trước, và từ đó thêm trân trọng từng khoảnh khắc hòa bình hôm nay.

Chiến tích Thành cổ Quảng Trị - Bản hùng ca bất tử

Khi đến với Quảng Trị, không gian nơi đây hiện lên với bề dày lịch sử chứa chan những dấu ấn không phai mờ. Bên dòng Thạch Hãn hiền hòa, Thành Cổ Quảng Trị hiện hữu với vẻ đẹp cổ kính, toát lên sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thấm đượm khát vọng tự do, độc lập của dân tộc. Mỗi bước chân qua cổng di tích như mở ra một trang sử đầy xúc cảm, nơi từng chứng kiến cuộc chiến ác liệt kéo dài 81 ngày đêm (từ 28/6 đến 16/9/1972).

Thành Cổ Quảng Trị

Thành Cổ Quảng Trị, với những bức tường rêu phong cổ kính, đã ghi dấu bao đau thương và mất mát của dân tộc. Từng viên gạch, từng tấc đất nơi đây đều ẩn chứa máu xương và linh hồn của những người con ưu tú, trở thành nơi an nghỉ vĩnh hằng của biết bao đồng đội. Dòng sông Thạch Hãn hiền hòa trôi lững lờ, ôm ấp trong lòng mình những linh hồn bất tử. Không chỉ là nhân chứng lịch sử, sông còn là “Dòng sông nghĩa trang thiên thu” của hàng ngàn chiến sĩ giải phóng quân và Nhân dân Quảng Trị đã hy sinh anh dũng vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Có lẽ vì thế mà tác giả Phạm Đình Lân, một người lính từng chiến đấu tại đây, khi trở về thăm chiến trường xưa đã không khỏi bồi hồi xúc động mà viết nên những vần thơ đầy nghẹn ngào trong bài “Tấc đất Thành cổ”: “Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi/ Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ/ Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió/ Ru mãi bài ca bất tử đến vô cùng”. Những vần thơ như lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà thấm thía về sự tôn kính cần có khi đứng trên mảnh đất thiêng liêng này, nơi các anh hùng đã hóa thân vào lòng đất mẹ, để gió trời Quảng Trị ru mãi khúc ca bất tử về lòng dũng cảm và sự hy sinh.

Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ trong Thành Cổ

Đứng trước đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ trong Thành Cổ, không ai trong chúng tôi không khỏi xúc động nghẹn ngào. Tên của hàng nghìn người con ưu tú của dân tộc đã nằm xuống nơi đây, mãi mãi tuổi hai mươi. Họ đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân, cả cuộc đời mình cho Tổ quốc. Sự hy sinh cao cả của các anh đã tô thắm thêm màu cờ đỏ, mang lại cuộc sống hòa bình, tự do cho chúng ta ngày hôm nay. Thành kính dâng nén hương thơm, tưởng nhớ đến những anh linh đã khuất, mỗi người trong chúng tôi đều cảm nhận sâu sắc sự mất mát và lòng quả cảm của các anh hùng. Giữa không gian trầm mặc, linh thiêng, những vần thơ “Dâng hương” của một thành viên trong nhóm chúng tôi khẽ cất lên, rõ ràng từng câu chữ, như một lời tri ân chân thành:

“Hồn linh sông núi tụ nơi đây

Thành kính dâng hương chốn thiêng này

Quảng Trị cổ thành hương nghi ngút

Nửa thế kỷ tròn giấc ngủ say

Máu xương thân xác tan cùng đất

Khí hùng lấp lánh cùng trời mây

Công trạng lưu danh cùng sử sách

Để Việt Nam ta mãi xum vầy” – (Tác giả: Thúy Hà)

Tất cả đều tự nhủ khắc ghi dạ sự hy sinh cao cả ấy và sẽ luôn nhắc nhở các thế hệ tiếp theo trân trọng, tự hào và phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc. Thành Cổ Quảng Trị không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là lời nhắc nhở sống động về giá trị của hòa bình và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam.

Giờ đây, Thành Cổ – di tích quốc gia đặc biệt tọa lạc ngay giữa lòng thị xã Quảng Trị bên dòng Thạch Hãn, được tô điểm bởi màu xanh của đất trời và cỏ cây bình yên. Những dấu tích hào hùng vẫn vang vọng về một thời oanh liệt, là cội nguồn nuôi dưỡng lòng yêu nước cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Sông Bến Hải, cầu Hiền Lương - Vĩ tuyến 17 lịch sử

Rời không gian linh thiêng của Thành Cổ, chúng tôi tiếp tục hành trình đến với cầu Hiền Lương lịch sử, bắc qua sông Bến Hải, con sông nằm đúng vĩ tuyến 17 nổi tiếng. Trải qua hơn 20 năm làm ranh giới chia cắt hai miền, nơi đây nay đã trở thành chứng tích sống động của khát vọng thống nhất đất nước.

Sông Bến Hải với dòng nước trong xanh, bầu không khí mát mẻ và phong cảnh hữu tình, càng làm tôn lên biểu tượng cho khát vọng thống nhất non sông của cầu Hiền Lương. Đứng trên cầu Hiền Lương, một người trong chúng tôi đã ngâm nga những vần thơ day dứt một thời: “Hiền Lương một lạch hai dòng/ Người tuy bên nớ mà lòng bên ni” hay “Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ/ Cách một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa”… Những vần thơ như một lời nhắc nhở sâu sắc về nỗi niềm của một thời gian đầy khổ đau xen lẫn khát khao đoàn viên, gợi nhắc bao kỷ niệm, lòng thương nhớ và niềm tin vào sự thống nhất của cả một dân tộc.

Cầu Hiền Lương

Trong những năm tháng chiến tranh, nơi đây đã diễn ra những cuộc đấu tranh chính trị gay go, những nỗ lực không ngừng nghỉ của quân và dân ta để thống nhất non sông. Bên cạnh những cuộc đối đầu bằng súng đạn, còn có những cuộc “chiến tranh” đặc biệt khác, có một không hai trên thế giới. Đó là cuộc “chiến tranh loa phóng thanh”, vang vọng qua những chiếc loa được lắp đặt ở hai đầu cầu, kéo dài trong suốt nhiều năm, nơi lời nói, âm thanh trở thành vũ khí khẳng định ý chí.

Sau Hiệp định Genève 1954, cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải trở thành ranh giới tạm thời chia đôi đất nước, với một đường sơn trắng mảnh kẻ ngang chính giữa để phân định hai miền. Phía Bắc cầu gồm 450 tấm ván thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Bắc, trong khi phía Nam gồm 444 tấm ván do chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Trong bối cảnh chia cắt, một cuộc đấu tranh đặc biệt đã diễn ra trên cầu – “cuộc chọi sơn”. Ban đầu, phía Nam sơn nửa cầu của mình màu xanh; ngay sau đó, phía Bắc cũng sơn nửa cầu còn lại thành màu xanh, thể hiện khát vọng thống nhất đất nước. Sau đó, phía Nam chuyển sang sơn màu nâu, phía Bắc cũng sơn lại màu nâu. Cứ như vậy, mỗi khi phía Nam thay đổi màu sơn, phía Bắc lại sơn theo để giữ cho cây cầu một màu thống nhất. Cuộc đấu tranh màu sắc này kéo dài đến năm 1960 thì giữ nguyên hai màu xanh - vàng, với ranh giới giữa hai phần cầu là một vạch trắng kẻ ngang. Năm 1967, cầu Hiền Lương bị bom Mỹ đánh sập. Cuộc “chọi sơn” không chỉ là một hình thức đấu tranh chính trị độc đáo, mà còn là biểu tượng cho khát vọng thống nhất non sông của Nhân dân Việt Nam trong những năm tháng đất nước bị chia cắt.

Song song với đó là cuộc chiến “đọ cờ” quyết liệt. Hai bên liên tục treo những lá cờ lớn hơn, cao hơn, vững chãi hơn, thể hiện ý chí và sức mạnh của mình. Cuộc chiến bảo vệ ngọn cờ Tổ quốc trên đầu cầu giới tuyến kéo dài suốt 1.440 ngày đêm với 11 lần bị kẻ thù đánh gãy bằng bom đạn, nhưng cột cờ này gãy xuống cột cờ khác lại mọc lên, hiên ngang trong lửa đạn như thách thức với quân thù – Với tinh thần “Ngày nào tim còn đập thì lá cờ còn tung bay”. Lá cờ không chỉ bay giữa gió trời mà còn bay trên ý chí sắt đá của cả một dân tộc không chịu khuất phục.

Vào ngày non sông liền một dải, những chiếc loa phóng thanh ở hai đầu cầu Hiền Lương, vốn từng là công cụ của cuộc “chiến tranh loa đài” chia cắt, nay đã hòa chung tiếng nói, vang lên những bản hùng ca, những lời hát hân hoan, cùng nhân dân hai bờ đón mừng ngày hội non sông thống nhất. Cây cầu sau này được phục dựng, cột cờ tại khu vực lịch sử cầu Hiền Lương vẫn được gìn giữ và lá cờ được trưng bày trong một không gian trang nghiêm, như một chứng tích sống động của khát vọng thống nhất và tinh thần bất khuất của dân tộc.

Ngày nay, Lễ hội “Thống nhất non sông” là sự kiện văn hóa – lịch sử cấp quốc gia, được tổ chức hàng năm vào ngày 30/4 tại Di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải. Lễ hội “Thống nhất non sông” không chỉ là dịp tưởng nhớ những hy sinh to lớn của các thế hệ cha anh mà còn là lời khẳng định về giá trị của hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc, thịnh vượng đất nước luôn là niềm khát vọng lớn lao mà đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, là biểu tượng đặc sắc nhất. Đó là khát vọng nhân văn không chỉ của người Quảng Trị mà còn của cả dân tộc./.

(còn tiếp)

Trúc Bạch

Bài 2: Kỳ tích địa đạo và khúc ca hồi sinh

Chia sẻ bài viết