Tiếng Việt | English

12/12/2018 - 19:37

Bầu Ban Chấp hành TW Hội Nông dân Việt Nam khóa VII với 119 ủy viên

Chiều 12/12, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2018-2023 đã tiến hành thảo luận và biểu quyết danh sách nhân sự giới thiệu bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII; lựa chọn bầu ra 119 Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII.

Các đại biểu bỏ phiếu bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)

Trước đó, trình bày Đề án bầu cử Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII, Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam Thào Xuân Sùng cho biết để đáp ứng yêu cầu của công tác Hội và phong trào nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc xây dựng Ban Chấp hành Trung ương Hội khóa VII phải đảm bảo tính khoa học, dân chủ, sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện đúng quy định của Điều lệ Hội. 

Nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương Hội khóa VII bảo đảm các tiêu chuẩn chung theo quy định, đồng thời bảo đảm yêu cầu, tiêu chuẩn riêng đối với cán bộ Hội.

Theo đó, Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VI, nhiệm kỳ 2013-2018 xây dựng số lượng, cơ cấu Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khóa VII, nhiệm kỳ 2018-2023 với số lượng: 119 ủy viên. So với Đại hội VI, số lượng Ủy viên Ban Chấp hành giảm 6 đồng chí (Đại hội VI có 125 Ủy viên).

Trong đó: Cơ quan Trung ương Hội gồm 35 đồng chí, chiếm 29,4%; cấp tỉnh, thành Hội: 63 đồng chí, chiếm 52,9%; Ủy viên thuộc bộ, ngành, đoàn thể gồm 5 đồng chí, chiếm 4,2%; Ủy viên thuộc khối doanh nghiệp gồm 5 đồng chí, chiếm 4,2%; Ủy viên là Hội viên tiêu biểu gồm 3 đồng chí, chiếm 2,5%, đại diện cho 3 vùng miền: miền Bắc, miền Trung, miền Nam; Ủy viên đại diện các Hợp tác xã tiêu biểu đại diện cho 3 vùng miền gồm 3 đồng chí, chiếm 2,5%; Ủy viên là nhà khoa học: 5 đồng chí, chiếm 4,2%.

Về cơ cấu xã hội: Tỷ lệ Ủy viên Ban Chấp hành là nữ: Từ 20-25%; Tỷ lệ Ủy viên Ban Chấp hành là cán bộ người dân tộc thiểu số: Từ 10-15%.

Về cơ cấu về độ tuổi: Có tỷ lệ hợp lý giữa 3 độ tuổi để bảo đảm tính kế thừa, liên tục và phát triển. Trong đó, độ tuổi dưới 40: phấn đấu tối thiểu 10%; trong đó khoảng 10% dưới 30 tuổi; độ tuổi từ 40-50: khoảng 50%, độ tuổi trên 50: khoảng 40%.../.

Theo TTXVN

Chia sẻ bài viết