Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề ĐLDT gắn liền với CNXH luôn được khẳng định. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định một trong những bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta là: “Nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. ĐLDT là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho ĐLDT. Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với CNXH; kiên định đường lối đổi mới”.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI đã chứng minh sự lựa chọn của Đảng và Nhân dân ta là hoàn toàn chính xác.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên mạnh mẽ. Các cuộc nổi dậy liên tiếp nổ ra trên khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Hơn bao giờ hết, ĐLDT trở thành yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối như không đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử đó?
Lịch sử đã có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một “tiếng sét” trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến và bành trướng ra khắp thế giới.
Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, C.Mác đã khái quát nó qua sự phát triển của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Theo quan điểm của C.Mác, sự thay đổi hình thái KT-XH này bằng hình thái KT-XH khác nhất định phải có điều kiện là hình thái KT-XH cũ đã mất khả năng tự phát triển và trở thành lực cản xã hội. Chủ nghĩa tư bản tất yếu bị thay thế bằng CNXH, và điều đó sẽ xảy ra ở những nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển đến đỉnh cao. Chính V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích Nga đã vận dụng sáng tạo các luận điểm của C.Mác vào hoàn cảnh lịch sử của nước Nga khi xác định: Giai cấp công nhân giành lấy chính quyền, sau đó dựa vào chính quyền của mình xây dựng CNXH.
Đúng vào thời điểm chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực thịnh, Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra năm 1917, mở đầu cho xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển đến mức người ta rêu rao như một “định mệnh” hay “trật tự vĩnh hằng” thì sau Cách mạng Tháng Mười, không ai không thấy cái “xiềng xích” giam hãm thế giới đã bị chặt đứt. Trật tự bị lật nhào tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Rõ ràng, Cách mạng Tháng Mười Nga “rung chuyển thế giới” đã làm cho tính chất thời đại, giai cấp trung tâm của thời đại, vai trò lãnh đạo cách mạng thay đổi. Vì vậy, con đường để giải quyết mâu thuẫn xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi. Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là ngọn đuốc dẫn đường mà còn có những đóng góp thực tế to lớn, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng Tháng Mười là niềm vinh quang của những người vô sản cùng với hàng trăm triệu người lao động thành thị và nông thôn nước Nga. Họ đã lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và phong kiến, giành quyền làm chủ cuộc sống của mình. Đó là thắng lợi của một xu thế mới: ĐLDT và CNXH.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, đã tác động mạnh mẽ vào Việt Nam - nơi mà chính “sự tàn bạo chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi". Nguyễn Ái Quốc là người ươm mầm, gieo trồng cho cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNXH. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố chất đặc biệt Việt Nam “bắt gặp” chủ nghĩa Mác-Lênin hun đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam làm cơ sở cho của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, ĐLDT và CNXH trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng khẳng định: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, một xã hội tốt đẹp gắn liền với tự do bình đẳng, bác ái”.
Vì vậy, sự lựa chọn mục tiêu ĐLDT và CNXH của Đảng và Nhân dân ta là một tất yếu khách quan. Xét về lịch sử, hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của Nhân dân Việt Nam; xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau. ĐLDT thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. ĐLDT đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia, dân tộc phải do quốc gia, dân tộc đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài. CNXH thực hiện ĐLDT để mở đường tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế và phong phú, đa dạng về văn hóa, tinh thần; thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. ĐLDT và CNXH trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, làm nên cốt cách, bản lĩnh và vị thế Việt Nam.
Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn, theo hệ giá trị đó, từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Qua 79 năm giành và giữ ĐLDT, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đặc biệt 38 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đất nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế.
Như vậy, ĐLDT và CNXH, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, nhu cầu, cương lĩnh hành động, ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, niềm tin sắt son. ĐLDT gắn với CNXH là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm nay và mai sau. Hệ giá trị ĐLDT và CNXH là mục tiêu, lý tưởng phù hợp xu thế thời đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Th.S Nguyễn Tấn Hải