Một điểm bỏ phiếu ở Hà Nội trong ngày 6/1/1946. (Nguồn: TTXVN)
Quốc hội Việt Nam đến nay đã trải qua 70 năm kể từ ngày Tổng tuyển cử đầu tiên. Thời gian đã xa, nhưng những ký ức về những tháng năm lịch sử đó vẫn không phai mờ trong tâm trí những người gắn bó với những thời điểm lịch sử hào hùng đó.
Đặc biệt là ở Nam Kỳ lúc bấy giờ, Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra trong bối cảnh quân địch luôn bao vây, chống phá.
Cho một nền dân chủ sơ khai
Sau khi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, nhân dân ở Nam Kỳ vẫn còn đối mặt với vô vàn khó khăn, nhất là quân địch đẩy mạnh đàn áp cách mạng. Nhưng nhân dân Nam bộ vẫn không hề nao núng và nô nức đi bỏ những lá phiếu đầu tiên thực hiện quyền công dân của mình để bầu cử Quốc hội Khóa đầu tiên, mở ra một nền dân chủ của đất nước.
Trong Hồi ức “Tiếng sóng bủa ghềnh” của mình, bà Ngô Thị Huệ, đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên chia sẻ: “Giữa lúc hầu hết các tỉnh Nam bộ lần lượt bị giặc Pháp chiếm đóng và sắp tràn đến Bạc Liêu, Tỉnh ủy Bạc Liêu nhận được chủ trương tổ chức bầu Quốc hội vào ngày 6/1/1946. Dẫu gặp vô vàn khó khăn trong việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử, Tỉnh ủy và chính quyền nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Chính phủ Trung ương, cử cán bộ về từng địa phương tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, xem như đó là một cuộc vận động nâng cao dân trí, tổ chức thực hiện sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Ủy ban Mặt trận Việt Minh giới thiệu đại diện đủ các giới, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, nhân sĩ trí thực tham gia ứng cử.”
Lần đầu tiên có Quốc hội, vì thế mà những đại biểu Quốc hội đầu tiên đều cảm thấy rất bỡ ngỡ, lo lắng về nhiệm vụ sắp tới của mình.
“Tôi cũng được Mặt trận giới thiệu ra ứng cử. Nay 27 tuổi đời rồi liệu có gánh vác nổi trách nhiệm đại biểu Quốc hội không? Tôi lo sẽ không đủ sức. Trong những ngày đi tuyên truyền vận động cho tổng tuyển cử, tận mắt thấy tai nghe nỗi khổ của đồng bào, xúc động nhất là lần tôi xuống tận vùng đốt than Năm Căn, được tiếp xúc hàng ngàn thợ lò trong bộ quần áo bằng bố tời, mặt mũi đen trùi trũi, chỉ còn nhìn thấy đôi mắt, chăm chú lắng nghe lần đầu tiên trong đời về cuộc bầu cử một Quốc hội để lập chính quyền kháng chiến giành độc lập và mưu cầu hạnh phúc cho dân. Tôi cám ơn đồng bào cử tri biết bao khi nghe bà con bàn tán chọn bầu đại biểu,” bà Ngô Thị Huệ nhớ lại.
Có lẽ chính những buổi đi vận động ấy, thấy được cảnh đời cơ cực của người dân và niềm tin của họ đối với mình, đã là động lực để những người đại biểu như bà quyết tâm làm tròn vai trò của một đại biểu dân cử, làm tròn trách nhiệm với đất nước.
Khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra, ông Phan Minh Tánh (nguyên Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh) vừa đủ 17 tuổi và được tham gia bỏ phiếu bầu cử tại tỉnh Bạc Liêu, ông cho biết: “Lúc đầu, những người dân như tôi đều chưa hiểu bầu cử Quốc hội là gì. Rồi sau đó được nghe phổ biến, chúng tôi dần hiểu rằng bầu cử là để tìm người đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền dân chủ. Đây là lần đầu tiên người dân được thực hiện quyền của mình, người dân đi bỏ phiếu vì độc lập - quyền thiêng liêng mà cả trăm năm cuộc đời chưa được nghe tới.”
Ông Phan Minh Tánh nhớ lại: “Khi đó tôi còn trẻ, chỉ biết Mặt trận Việt Minh đi vận động bầu cử, đây là việc rất quan trọng để sau này xây dựng Hiến pháp cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”
Mặc dù khi cả nước thực hiện cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội khóa 1, ông Phạm Học Lâm (nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) mới 16 tuổi, chưa đủ điều kiện đi bỏ phiếu nhưng bản thân ông biết rất rõ về thời điểm năm ấy. Bởi, là người “có ăn, có học” và thành tích học tập tốt nên ông Phạm Học Lâm được phân công làm thư ký ở Ban bầu cử xã Tân Duyệt, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Bạc Liêu.
Nhớ lại không khí ngày 6/1/1946, ông Phạm Học Lâm cho biết, khi đó người dân rất phấn khởi và gần như 100% người dân náo hức kéo nhau đi bầu cử. Địa phương ông lúc đó là khu vực An toàn khu nên công tác bầu cử không gặp phải sự cản trở, chống phá của các thế lực thù địch.
Mặt khác, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh khi đó, do vậy việc vận động người dân tham gia bầu cử cũng không gặp nhiều khó khăn. Chỉ cần tuyên truyền cho người dân hiểu được vai trò của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, khi đó họ rất đồng tình ủng hộ, hăng hái tham gia bầu cử.
Ở tỉnh Bạc Liêu có khoảng 6-7 người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa I và ba người có uy tín nhất được nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội của tỉnh gồm thầy giáo Nguyễn Văn Đính, ông Cao Triều Phát (đại diện tôn giáo) và bà Ngô Thị Huệ (một cán bộ cách mạng).
Theo ông Phạm Học Lâm, kết quả bầu cử đã thể hiện sự dân chủ, khi những người trúng cử đều được nhân dân tín nhiệm cao, đại diện cho các tầng lớp nhân dân, không phân biệt đảng phái, tôn giáo...
Trong thời gian này, nhiều khu vực khác tại Nam bộ không được may mắn như Bạc Liêu, khi bị quân Pháp chiếm đóng, đàn áp nên cuộc bầu cử diễn ra rất khó khăn. Tuy nhiên, người dân vẫn không quản ngại nguy hiểm để tham gia bầu cử, lần đầu tiên được thực hiện quyền công dân của mình.
Hành trình gian khổ của nữ đại biểu Quốc hội
Được sự tin tưởng và ủng hộ của nhân dân, bà Ngô Thị Huệ (thường gọi bằng tên thân thương là cô Bảy Huệ) khi đó đã trở thành một trong ba đại biểu nữ thuộc đoàn đại biểu miền Nam của Quốc hội khóa I. Với bà đây là niềm vinh hạnh lớn lao, trong hồi ức của mình, cô Bảy Huệ không quên không khí đi vận động, tuyên truyền bầu cử ngày ấy.
“Trong tâm trí tôi lại khắc ghi thêm hình ảnh của những bà mẹ, người chị buôn thúng bán bưng, với những dòng chữ nguệch ngoạc đã viết tên Huệ trên những tấm lá chuối, giấy gói hàng chuyền tay cho nhau đọc, vận động bỏ phiếu cho tôi. Làm sao tôi có thể quên được,” cô Bảy Huệ nhớ lại.
Xúc động và vinh hạnh là vậy, nhưng người đại biểu ấy chưa thể hình dung được con đường đi họp Quốc hội lại khó khăn, gian nan đầy thử thách đến vậy.
Phải mất hơn sáu tháng ròng rã theo đường biển qua Thái Lan, Trung Quốc, đoàn đại biểu miền Nam mới ra được tới Hà Nội. Do vậy, được triệu tập cho kỳ họp đầu tiên, nhưng khi đoàn ra tới Hà Nội thì Quốc hội khóa I đã chuẩn bị bước vào kỳ họp thứ hai.
Trong hồi ức, bà Ngô Thị Huệ vẫn nhớ như in: “Đến tháng 3/1946, chúng tôi được thông báo ra thủ đô Hà nội dự phiên họp Quốc hội đầu tiên. Lúc này quân và dân tỉnh nhà đã bước vào cuộc kháng chiến gian khổ, ác liệt. Không thể đi đường công khai mà phải mượn con đường biển, điểm tập kết để xuất phát là khu vực Vàm Ông Trang (Mũi Cà Mau). Chúng tôi được tổ chức đưa đi trên một chiếc thuyền đánh cá để qua Thái Lan an toàn, nơi có đông kiều bào yêu nước ra đón.”
Tuy nhiên, dự định ban đầu của đoàn là từ Thái Lan đi qua Lào để về Hà Nội đã không thực hiện được vì quân Pháp đã đánh sang Lào. Tình hình không ổn định khiến đoàn bị kẹt ở Thái Lan trên dưới sáu tháng. Ai cũng rất nóng lòng để được về thủ đô Hà Nội càng sớm càng tốt. Do vậy, đoàn phải chia ra nhiều nhóm nhỏ đi trên đường biển.
“Nhờ sự giúp đỡ của tổ chức Việt kiều yêu nước, tôi đóng giả người Hoa để từ Bangkok (Thái Lan) qua đảo Hải Nam rồi lại đi tiếp qua Bắc Hải về Đồng Hưng (Trung Quốc), nơi giáp ranh với Móng Cái (Quảng Ninh). Khi đặt chân lên mảnh đất thân yêu, ngước nhìn lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, nước mắt vui mừng cứ trào ra,” bà Ngô Thị Huệ bồi hồi nhớ lại.
Đến tháng 10/1946, các đại biểu miền Nam được triệu tập ra họp kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I mới tới Hà Nội và bước vào kỳ họp thứ hai. Những gian nan vất vả trên hành trình thực hiện trách nhiệm của một Đại biểu dân cử lần đầu tiên không ai biết trước. Dù kéo dài cả nửa năm trời trên hành trình ấy, nhưng tấm lòng kiên định, nhiệt huyết của nữ đại biểu Ngô Thị Huệ cùng các đại biểu khác từ miền Nam vẫn dâng trào sục sôi, góp phần vào sự thành công của Quốc hội khóa I.
Đã 70 năm trôi qua, nhưng những ký ức về những ngày tháng có ý nghĩa lịch sử ấy vẫn chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí của những đại biểu Quốc hội năm xưa.
Những người dân tin tưởng bỏ những lá phiếu bầu ra đại biểu đại diện nhân dân đã không khỏi xúc động khi được nghe kể về hành trình đầy gian khổ, thử thách mà các đại biểu Quốc hội trải qua để thực hiện trách nhiệm, quyền công dân, quyền dân chủ của một dân tộc, một đất nước độc lập.
Ông Phan Minh Tánh cho biết: “Sau này nghe các đồng chí kể lại hành trình vất vả, gian khổ để ra Hà Nội họp Quốc hội mới thấy nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của các đại biểu khi ấy, trong đó có những nữ đại biểu như cô Bảy Huệ. Vượt qua khó khăn để thực hiện quyền và trách nhiệm của một đại biểu dân cử ở thuở sơ khai. Cử tri như chúng tôi rất tự hào bởi sự lựa chọn và niềm tin của mình đã đúng đắn.”
Ý chí quyết tâm của những đại biểu năm xưa đã làm nên thành công của Quốc hội khóa I, một kỳ Quốc hội đi vào lịch sử với vai trò và ý nghĩa đặc biệt, là Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, là mốc đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ./.
Tiến Lực-Thu Hoài/Vietnam+