Sau khi Pháp đánh thành Gia Định (17/2/1859), Nguyễn Trung Trực gia nhập vào đạo quân đồn điền do Phó lãnh binh Gia Định Trương Định lãnh đạo, theo tiến gọi ứng nghĩa kéo về phòng tuyến Đại đồn Kỳ Hòa chống giặc đánh lan ra phía Tây. Đại đồn thất thủ (25/2/1861), quân triều đình rút về Biên Hòa, từ đây, nhiệm vụ đánh giặc, cứu nước đặt lên vai những người “dân ấp, dân lân mến nghĩa làm dân chiêu mộ”.
Pháp chiếm Sài Gòn rồi tiến đánh Định Tường (12/4/1861), Nguyễn Trung Trực chặn đánh ở Bảo Định, diệt Trung tá chỉ huy Bourdais và 30 lính Pháp. Ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực chỉ huy đốt cháy tiểu hạm L’Espérance (Hy Vọng) trên Vàm Nhựt Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ), đến tháng 12/1862, tấn công một số tiểu hạm khác ở sông Bến Lức, sông Tra.
Chiếm Định Tường, Pháp bố trí nhiều tàu tuần tiễu để kiểm soát tình hình, trong đó có tiểu hạm L’Espérance tại vàm sông Nhựt Tảo với 45 lính Pháp, Tagal và Việt, trang bị một khẩu đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng; trên bờ còn lập một đồn ở chợ Nhựt Tảo (nay chợ này không còn) với 20 lính tập người Việt sẵn sàng yểm trợ. Tiểu hạm L’Espérance là một trong những tàu thuộc hàng bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ, xét về trang bị, bố phòng và tương quan lực lượng, thực sự là một pháo đài nổi gần như bất khả xâm phạm, đầy thách thức đối với nghĩa quân.
Nguyễn Trung Trực sau khi điều nghiên, xây dựng một kế hoạch tập kích táo bạo nhưng hoàn hảo, sáng ngày 10/12/1861, cho một toán nghĩa quân kéo về kinh Ông Hóng (xã Bình Lãng, huyện Tân Trụ), gióng trống khua chiêng để nghi binh, phân tán lực lượng địch, dụ Trung úy trẻ chỉ huy Parfait - được đánh giá là tích cực, can đảm, từng được gắn nhiều huy chương vì thành tích quân sự nhưng háo thắng - đưa một toán lính rời tàu xuống xuồng nhỏ kéo đi truy kích, để lại một số ít lính Pháp trên tàu; rồi cho phó Quản cơ Huỳnh Khắc Nhượng và Nguyễn Văn Quang dẫn hai đội quân men theo bờ sông tiến sát chỗ tàu đậu, chờ lệnh. Đến trưa, Nguyễn Trung Trực cùng 59 nghĩa quân giả làm thuyền buôn (theo Đại Nam thực lục chính biên [Đệ tứ kỉ, Q.26]) tấn công bất ngờ tàu L’Espérance. Các đội quân của Huỳnh Khắc Nhượng và Nguyễn Văn Quang chỉ huy xáp chiến, đồng thời tấn công lính mã tà trên bờ, rồi nổi lửa đốt tàu. Sau trận đánh, ta diệt 17 lính Pháp và Tagal, và 20 tên lính tập trên đồn Nhựt Tảo. Khi Parfait quay trở lại, chỉ tìm được 3 tên lính Tagal trốn thoát nấp trong bụi rậm.
Trận đốt tàu L’Espérance làm danh tiếng của Nguyễn Trung Trực vang lừng khắp nơi. Ông được đánh giá là vị chỉ huy chẳng những có võ nghệ cao cường mà trí lược hơn người, chỉ bằng vũ khí thô sơ và mưu trí đã tiêu diệt chiến hạm của Pháp được trang bị vũ khí hiện đại. Chiến thắng Nhựt Tảo trở thành nỗi ám ảnh của thực dân Pháp và niềm cổ vũ lớn lao cho nghĩa quân, “là khúc nhạc mở đầu cho một cuộc tổng công kích hầu như toàn bộ các đồn lũy của người Pháp” (Alfred Schreiner).
Đến trận lấy đồn Kiên Giang (16-6-1868), diệt Chủ tỉnh Chánh Phèn, 5 sĩ quan, 67 lính cả Pháp và quan chức người Việt làm việc cho Pháp, bắt sống 6 tên, thu trên 100 súng và một kho đạn, làm chủ tỉnh lỵ suốt một tuần cho thấy trình độ tập kích của Nguyễn Trung Trực phát triển đến mức cao, từ huấn luyện nghĩa quân, tổ chức lực lượng, chiến thuật táo bạo, thời điểm tấn công khiến địch hoàn toàn bị động,... đã làm cho người Pháp dù biện bạch chống chế cho thất bại này cũng phải thừa nhận: “Thảm họa Rạch Giá là một trong những biến cố đau thương...” (Paulin Vial), “một sự kiện bi thảm” (George Diirrwell).
Từ “Hỏa hồng Nhựt Tảo” đến “Kiếm bạt Kiên Giang”, Nguyễn Trung Trực bằng tài năng quân sự thiên bẩm đã thể hiện và minh chứng sinh động tinh hoa và tư tưởng quân sự Việt Nam “lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh”.
Ngày 27/10/1868 (nhằm ngày 12/9 năm Mậu Thìn), người anh hùng áo vải dù “thất thế nhưng vẫn hiên ngang” bước lên đoạn đầu đài, đón nhận cái chết đầy dũng khí, để lại cho hậu thế 2 chiến công oanh liệt “Hỏa hồng Nhựt Tảo” và “Kiếm bạt Kiên Giang” cùng câu nói bất hủ đi vào lịch sử thể hiện ý chí chống ngoại xâm đến cùng của dân tộc Việt Nam: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Tương truyền, ngày ông bị xử chém ở Rạch Giá, dân chúng thương tiếc người anh hùng đã làm lễ tế tiễn ông dọc 2 bên đường. Trước khi hành quyết, Pháp hỏi ông có cần gì không, ông chỉ xin uống một trái dừa tươi và ngâm bài thơ tuyệt mệnh:
Theo việc binh nhung thuở trẻ trai
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
Anh hùng gặp phải hồi không đất
Thù hận chang chang chẳng đội trời.
(Thi sĩ Đông Hồ dịch)
Một hình ảnh thật bi tráng, đầy sức nặng của một thời “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”, thật sự là “anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”.
Truyền thuyết rằng, lúc ra pháp trường đã xảy ra điều chưa từng có là tên đao phủ quỳ lạy xin lỗi ông, vì nghèo khó nên phải đi làm nghề chém mướn. Câu chuyện dù xuất phát từ lòng ngưỡng vọng, tôn kính ông như thần thánh của nhân dân nhưng toát lên thần thái, khí phách hiên ngang của Nguyễn Trung Trực nơi pháp trường. Trước khi đao phủ hành quyết, ông còn yêu cầu đừng bịt mắt...
“Sanh vi tướng, tử vi thần” vốn là quan niệm, là lẽ sống của một dân tộc có truyền thống yêu nước chống xâm và có lẽ Nguyễn Trung Trực là trường hợp thể hiện đầy đủ tinh thần ấy. Sự kính ngưỡng sâu sắc mà người dân dành cho ông ngoài việc thờ cúng khắp Nam bộ là những truyền thuyết dân gian giàu chất huyền thoại gắn liền với những chiến công và tấm gương yêu nước, hy sinh oanh liệt của người anh hùng dân chài./.
Nguyễn Tấn Quốc