Xưa, người dân xứ tôi hay sống ven sông Vàm Cỏ Đông. Ông bà tổ tiên sống nhờ sông, chết đi cũng nằm dưới ba tấc đất này.
Thuở trước mỗi lần đi dẫy mả là cực lắm vì toàn mả đất, cỏ nỉa mọc thành lùm, thành bụi. Ba nói hồi xưa chiến tranh, nhà nghèo, khi mai táng có cái quan tài đã là may mắn lắm. Ông bà tôi may phước nên có con cháu mỗi năm quét tước, nhang khói chứ nhiều gia đình chẳng còn một ai. Người đi dẫy mả thấy thương, phác cỏ sơ sơ, cuốc vài cục đất đắp lên rồi cắm ba cây nhang tình nghĩa.
Con cháu trong dòng họ tôi họp mặt tảo mộ ông bà
Khi Nhà nước quy hoạch đất làm khu công nghiệp, ông bà chúng tôi được quy tập về một chỗ chứ không còn nằm rải rác như xưa, việc dẫy mả cũng dễ dàng hơn vì phần mộ được lát gạch khang trang, sạch đẹp.
Đây là nơi tôi hay ngồi tận hưởng phút yên bình. Lần nọ, tôi chợt nghĩ, cần phải tìm hiểu về gốc tích của mình để con cháu sau này biết chúng đang thờ cúng ai, người ấy đã làm gì được và chưa được.
Thế là tôi bắt tay vào việc viết gia phả. Người miền Nam rất ít gia đình có gia phả, bởi lưu dân khai hoang chủ yếu là người ít học, không chịu nổi áp bức, bất công nên bỏ xứ mà đi,…
Mặc khác, ông bà ta ngày xưa sống rày đây mai đó, di chuyển rất nhiều trên sông nước, nếu có gia phả thì việc giữ gìn cũng tương đối khó khăn. Nhiều lão niên khi được hỏi gốc tích mình chỉ nhớ lờ mờ theo lời người xưa truyền lại.
Việc giáo dục những đứa trẻ để chúng luôn hướng về nguồn cội, tổ tiên là điều cần thiết. Đó là lý do thôi thúc tôi viết gia phả
Ba tôi ít chữ, nông dân rặt nhưng khi nghe tôi trình bày kế hoạch viết gia phả ông rất tán thành. Suốt mấy tháng cách li vì dịch Covid - 19, ngày nào tôi cũng ngồi nghe ba kể chuyện về ông bà xưa. Chỗ nào không nhớ, ông gọi hỏi những người lớn tuổi trong dòng họ, ai nghe chuyện cũng hào hứng, nhiệt thành như sống lại những năm tháng tuổi trẻ. Tôi truy tìm rất nhiều nguồn, viết rồi sửa đi, sửa lại 7, 8 lần mới vừa ý ông.
Ba tôi vốn kiệm lời, có những chuyện nếu tôi không hỏi, nếu không có cuốn gia phả thì khi ông mất đi sẽ không còn ai biết nữa. Nhờ viết gia phả, tôi biết được gốc gác của mình, biết được sự vất vả, khó nhọc của cha ông thời khai hoang mở cõi. Nhờ viết gia phả, gia đình tôi gắn kết hơn, cởi mở hơn, từng thành viên ai cũng tự hào vì tên mình có trên trang giấy.
Khi viết gia phả, tôi nhận thức rằng mình là người chép sử, phải trung thực. Mỗi người có tên là một câu chuyện, ai công hầu, ai khanh tướng, ai bần cùng, ai giàu sang, ai thiện lành, ai chưa tốt,…đều được ghi lại kỹ càng.
Từ khi có cuốn gia phả, tôi nhận thấy từng thành viên trong gia đình thay đổi theo hướng tích cực, bởi ai cũng muốn câu chuyện của mình là tấm gương đẹp cho hậu thế.
Ở miền Nam thường giỗ tới đời thứ 4 là hết, những nhân vật có niên đại lớn hơn được người dân tổ chức cúng việc lề nhưng cũng không còn nhiều thông tin do thiếu gia phả.
Nhiều bạn trẻ ngày nay thậm chí không biết người được giỗ là ai. Tết, họ chỉ biết đưa, rước ông bà nhưng thường “mờ mịt” về tiền nhân. Theo lẽ thường, nếu chưa hiểu thì không thể thương trọn vẹn.
Bởi vậy, tôi in gia phả ra, phát cho mỗi thành viên trong gia đình một bản. Tới ngày giỗ ông bà hoặc dịp dẫy mả này, ba má tôi lại tập trung con cháu lại rồi kiểm tra kiến thức viết trong gia phả, kể cho chúng nghe những câu chuyện về tiền nhân, khuyên răn chúng điều hơn lẽ thiệt, đồng thời đúc rút kinh nghiệm năm vừa qua.
Gia đình chúng tôi đã duy trì việc ấy được 3 năm. Nhìn khói hương nghi ngút nơi phần mộ tổ tiên, chúng tôi tự nhắc mình sống thiện lương, tốt đẹp để trang gia phả luôn truyền lại những điều hay./.
Huỳnh Thông