Tiếng Việt | English

27/08/2025 - 18:15

Tuyên ngôn Độc lập - Giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại mãi trường tồn

Ngày 02/9/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước do Nhân dân làm chủ đầu tiên ở Đông Nam Á đã được khai sinh bằng bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và tuyên bố trước quốc dân, đồng bào tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Có thể khẳng định rằng, sự ra đời của một nhà nước không chỉ là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng đối với chính quốc gia, dân tộc đó mà còn đối với cả cộng đồng quốc tế.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh bằng bản Tuyên ngôn Độc lập, đó là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam và là thắng lợi chung của các dân tộc yêu chuộng hòa bình.

80 năm qua, những tư tưởng, giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của bản Tuyên ngôn Độc lập vẫn trường tồn. Tiếp cận dưới góc độ pháp lý, bản Tuyên ngôn Độc lập chứa đựng các giá trị to lớn. Thứ nhất, Tuyên ngôn Độc lập ghi nhận các quyền của con người gắn với các quyền dân tộc cơ bản.

Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến tư tưởng vĩ đại của Thomas Jefferson trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ rằng “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và nhắc đến tư tưởng của các nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII trong Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền năm 1791 của nước Pháp rằng: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Người đã khéo léo vận dụng những tinh hoa trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người để thể hiện những “lời bất hủ” trong bản Tuyên ngôn, khẳng định “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

Điều đặc biệt ở Hồ Chí Minh là sau khi khẳng định quyền con người với ý nghĩa là quyền con người nói chung và quyền mỗi con người nói riêng, Người đã “suy rộng ra” và nâng lên thành quyền của tất cả các dân tộc trong thời đại mới: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đó là kết luận logic, hợp lý và đanh thép.

Từ kết luận đó, Người kết tội đế quốc Pháp và phát xít Nhật đã xâm phạm quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam. Kết thúc bản Tuyên ngôn, Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Thứ hai, Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền dân tộc tự quyết khi tuyên bố rõ ràng về việc dân tộc Việt Nam đã giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật và đế quốc Pháp. Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật.

Đầu hàng Nhật, chính phủ Pháp còn phản bội quân Đồng minh trong nhiệm vụ chung là chống lại chủ nghĩa phát xít, bảo đảm hòa bình cho nhân loại. Tất cả những hành vi trái với đạo lý, pháp lý đã được ghi rõ trong Tuyên ngôn Độc lập: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa.

Khi Nhật hàng Đồng minh thì Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Như vậy quyền bảo hộ của chính phủ Pháp đối với Việt Nam đã không còn. Tuyên ngôn đã khẳng định các quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam: Quyền quyết định trong vấn đề đối ngoại “Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam.

Tuyên ngôn Độc lập đã chỉ rõ con đường phát triển của nhà nước Việt Nam mới về hình thức chỉnh thể là cộng hòa và là cộng hòa dân chủ; về chế độ chính trị là nhà nước dân chủ - nhà nước của dân, do dân và vì dân. Việt Nam đã thực hiện quyền tự quyết thông qua Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nhà nước dân chủ, khẳng định quyền được sống trong hòa bình, độc lập.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Điều này thể hiện ý chí quật cường, tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam, đồng thời là lời tuyên bố mạnh mẽ với thế giới về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của một quốc gia.

Tuyên ngôn Độc lập còn kêu gọi các nước Đồng minh công nhận quyền độc lập và tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nếu đặt những giá trị pháp lý về quyền dân tộc tự quyết trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ở thời điểm lịch sử đó thì có thể khẳng định rằng Tuyên ngôn là “hòn đá tảng của pháp lý hiện đại”.

Thứ ba, Tuyên ngôn Độc lập mở đầu cho cuộc đấu tranh bình đẳng giới. Ngay trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ cũng khẳng định “Tất cả những người “đàn ông” (all men) sinh ra đều bình đẳng…”. Nhưng khi dẫn lại trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã dịch (all men) là “tất cả mọi người”: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, nghĩa là quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc không chỉ dành cho những người “đàn ông” mà cho cả phụ nữ, cho tất cả mọi người.

Quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam trong Tuyên ngôn đã được hiện thực hóa ngay trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa đầu tiên (ngày 06/01/1946) và được ghi nhận trong Điều 1, Hiến pháp năm 1946 của nước ta: “Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bình đẳng trong nước là của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo đã kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu những thành tựu của nền văn minh nhân loại và nâng lên tầm cao mới, trong thời đại mới. Tuyên ngôn Độc lập vẫn mãi là ngọn đốc soi đường cho Đảng và dân tộc ta trên con đường xây Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân./.

Đoàn Xê

Chia sẻ bài viết