Tiếng Việt | English

14/12/2021 - 09:32

Ngành Đo đạc và Bản đồ tỉnh Long An: Không ngừng đổi mới, phát triển

Trải qua chặng đường 62 năm, ngành Đo đạc và Bản đồ tỉnh khắc phục các tồn tại, hạn chế, không ngừng đổi mới, phát triển, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh nhà.

Trải qua 62 năm, ngành Đo đạc và Bản đồ tỉnh không ngừng đổi mới, phát triển

Từng bước hoàn thiện

Theo Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) - Phạm Tùng Chinh, ngày 20/9/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 991/QĐ-TTg “Hàng năm lấy ngày 14 tháng 12 là Ngày truyền thống ngành Đo đạc và Bản đồ Việt Nam”. Trải qua 62 năm, ngành Đo đạc và Bản đồ Việt Nam nói chung, tỉnh Long An nói riêng có những bước đổi mới, phát triển với những mốc thời gian cụ thể. Trong đó, từ năm 1975 đến 1980, công tác đo đạc và bản đồ ở Long An chủ yếu dựa vào các tài liệu do chế độ cũ từ thời Pháp thuộc để lại, đa phần là lược đồ giải thửa tỷ lệ 1/4.000, chỉ sử dụng cho mục đích điều tra đất theo Quyết định số 169-CP từ năm 1977.

Năm 1981, thực hiện tinh thần Chỉ thị số 299/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đo đạc, phân hạng, đăng ký thống kê đất, ruộng đất, Trung ương đầu tư ảnh máy bay xây dựng bản đồ địa chính phục vụ công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) theo mẫu của tỉnh (mẫu tấc đất, tấc vàng).

Từ năm 1992 đến nay, tỉnh đầu tư cho công tác đo đạc cơ bản chính quy có gắn hệ tọa độ như lập lưới địa chính I, II; lập bản đồ địa chính bằng phương pháp điều vẽ ảnh hàng không cho toàn tỉnh; lập bản đồ địa chính bằng phương pháp đo đạc trực tiếp (nâng tỷ lệ bản đồ) các huyện: Bến Lức, Cần Giuộc, Cần Đước, Châu Thành, Tân Trụ, Tân Thạnh, Tân Hưng, Đức Huệ, Bến Lức, Đức Hòa, thị xã Kiến Tường và TP.Tân An, sau đó đến các huyện còn lại trong tỉnh. Công tác đo đạc và bản đồ từng bước có sự hoàn thiện và phát triển.

Sau khi quyết định thành lập Sở TN&MT trên cơ sở sáp nhập và tổ chức lại Sở Địa chính và một số bộ phận của Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công nghiệp, ngày 03-10-2003, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3466/QĐ-UB về ban hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Sở TN&MT. Theo đó, Sở TN&MT là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, nước, khoáng sản, môi trường, khí tượng - thủy văn, đo đạc bản đồ trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật, trong đó nhiệm vụ quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ được quy định rất cụ thể.

Đạt nhiều kết quả tích cực

Phó Giám đốc Sở TN&MT - Phạm Tùng Chinh thông tin: ngành Đo đạc và Bản đồ tỉnh từng bước khắc phục các khó khăn, vướng mắc và đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh. Hoạt động đo đạc và bản đồ là hoạt động điều tra cơ bản: Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và thành lập các sản phẩm đo đạc và bản đồ đáp ứng nhu cầu sử dụng chung cho các ngành và địa phương.

Các sản phẩm đo đạc và bản đồ là những tài liệu cơ bản (như các loại bản đồ, số liệu tọa độ, độ cao,…) phục vụ công tác quản lý nhà nước, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, góp phần phát triển KT - XH, quốc phòng - an ninh; làm cơ sở phục vụ công tác lập quy hoạch, kế hoạch, thăm dò, khai thác các loại tài nguyên, đặc biệt là phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất đai,…

Hoạt động đo đạc và bản đồ chủ yếu trên địa bàn tỉnh hiện nay là đo đạc thành lập bản đồ địa chính (trích đo địa chính) phục vụ công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; thu hồi đất; kê khai đăng ký cấp GCNQSDĐ, lập hồ sơ địa chính, xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính nói riêng và cơ sở dữ liệu đất đai nói chung; phục vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển KT - XH và công trình công cộng; phục vụ công tác giải quyết tranh chấp đất đai, thi hành án,… đo cao độ, địa hình phục vụ công tác san lấp xây dựng các công trình,...

Long An được Tổng cục Địa chính (nay là Bộ TN&MT) xây dựng hoàn chỉnh lưới tọa độ cơ sở hạng III (địa chính cơ sở) vào năm 1995 và bàn giao năm 2000 phủ trùm toàn tỉnh với tổng số 354 điểm, hệ tọa độ VN-2000. Từ các mốc cơ sở này đã phát triển hệ thống lưới địa chính I, II phục vụ cho thiết kế lưới đo vẽ và đo vẽ chi tiết từng thửa đất.

Từ năm 1981 đến nay, Long An được Tổng cục Quản lý ruộng đất và UBND tỉnh đầu tư kinh phí cho việc khai thác các nguồn tư liệu ảnh hàng không phục vụ kịp thời công tác điều vẽ chỉnh lý xây dựng bản đồ địa chính cơ bản hoàn thành năm 1997 và hiện nay tỉnh tiếp tục đầu tư kinh phí cho các dự án đo đạc, nâng tỷ lệ bản đồ hoàn thiện bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính đúng theo quy định của Luật Đất đai và yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương.

Năm 1993, kết hợp Ban Tổ chức chính quyền (nay là Sở Nội vụ) hoàn thành bộ bản đồ địa giới hành chính 364/CT-TTg ở 3 cấp: Tỉnh, huyện, xã (Ban tổ chức chính quyền chủ trì). Năm 2011, tỉnh triển khai, thực hiện Phương án chuyển đổi bộ hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính các cấp tỉnh Long An sang Hệ tọa độ quốc gia VN - 2000, được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 429/QĐ-UBND, ngày 09/02/2011; sản phẩm được đưa vào khai thác, sử dụng.

Hiện nay, ngành tiếp tục phối hợp Sở Nội vụ tổ chức triển khai Dự án “Hoàn thiện, hiện đại hóa hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính tỉnh Long An” (giai đoạn 2) theo Quyết định số 513/QĐ-TTg, ngày 02/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ, đó là: Kiểm tra, rà soát, thống nhất ranh địa giới hành chính các cấp và xây dựng cơ sở dữ liệu địa giới hành chính để quản lý, sử dụng thống nhất trên địa bàn tỉnh.

Bộ TN&MT đã ban hành Thông tư số 16/2016/TT-BTNMT, ngày 11/7/2016 về ban hành danh mục địa danh dân cư, sơn văn, thủy văn, KT - XH phục vụ công tác thành lập bản đồ tỉnh Long An được áp dụng thống nhất trên địa bàn tỉnh. Từ năm 1997, tỉnh cơ bản hoàn thành việc đo đạc, lập bản đồ địa chính, đăng ký cấp GCNQSDĐ, lập hồ sơ địa chính trên phạm vi toàn tỉnh với tổng diện tích là 449.479ha, chiếm 100% diện tích tự nhiên toàn tỉnh (theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2019).

Được sự quan tâm của Bộ TN&MT, từ năm 2008 đến nay, tỉnh cơ bản hoàn thành đo đạc nâng tỷ lệ bản đồ địa chính bằng phương pháp đo đạc trực tiếp ngoài thực địa tại 83 xã, phường, thị trấn với tổng diện tích hoàn thành đo đạc lập bản đồ địa chính là 135.410,51ha, chiếm 30,13% tổng diện tích tự nhiên (449.478,63ha, theo số liệu kết quả kiểm kê đất đai năm 2019). Tỉnh thành lập 936 điểm lưới địa chính cấp I, II.

Tỉnh đã và đang đầu tư thực hiện 7 dự án đo đạc lập bản đồ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính. Đối với 107 xã, phường, thị trấn chưa được đo đạc nâng tỷ lệ bản đồ, HĐND tỉnh đã cho chủ trương thực hiện, dự kiến thời gian từ năm 2021-2024. Mặt khác, tỉnh đã và đang triển khai dự án xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai trên địa bàn tỉnh (gọi tắt là Dự án VILG), thời gian hoàn thành ngày 31/12/2021.

Tính đến nay, toàn tỉnh có 26 tổ chức được Cục Đo đạc Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam cấp giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ. Với đội ngũ cán bộ kỹ thuật trẻ, có trình độ trong việc ứng dụng thông tin khoa học, hầu hết đơn vị hoạt động có hiệu quả, sản phẩm đạt chất lượng, có độ tin cậy hơn so với trước đây, ứng dụng và chuyển giao công nghệ thông tin trong công tác đo đạc bản đồ ngày càng tiến bộ./.

Để ngành Đo đạc và Bản đồ tiếp tục phát triển, thời gian tới, Sở sẽ thực hiện kiểm tra, rà soát, thẩm định và trình Cục Đo đạc bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam cấp giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ (trích đo địa chính,...) cho các đơn vị theo nhu cầu.

Tiếp tục kiến nghị Cục Đo đạc bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam quan tâm đầu tư bổ sung các mốc địa chính cơ sở bị mất, hư hỏng trên địa bản tỉnh, đầu tư chỉnh lý bổ sung bản đồ nền địa hình phục vụ chuyên ngành, cụ thể như mạng lưới giao thông dân cư. Đôn đốc bàn giao, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm dự án đo đạc nâng tỷ lệ bản đồ địa chính, lập hồ sơ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính (6 xã, 2 thị trấn thuộc huyện Đức Hòa).

Đồng thời, tăng cường công tác cập nhật, chỉnh lý biến động trên bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu địa chính để khai thác, quản lý sử dụng phát huy tối đa và hiệu quả, xem đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của hệ thống Văn phòng Đăng ký đất đai và việc kiểm tra, giám sát của đơn vị tham mưu quản lý nhà nước. Tiếp tục triển khai các dự án đo đạc nâng tỷ lệ bản đồ đối với 107 xã, phường, thị trấn còn lại (Dự án đo đạc tổng thể).

Tiếp tục mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành về đo đạc bản đồ, tập trung đối tượng là cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn; tiếp cận những kiến thức, khoa học công nghệ về đo đạc bản đồ”.

Phó Giám đốc Sở TN&MT - Phạm Tùng Chinh

Lực Nguyễn

Chia sẻ bài viết