Tiếng Việt | English

16/09/2024 - 09:22

Sáng ngời mốc son lịch sử Nam Bộ kháng chiến

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công các trụ sở của chính quyền cách mạng non trẻ Việt Nam tại Sài Gòn, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. 79 năm trôi qua, song khí thế hào hùng của Ngày Nam Bộ kháng chiến vẫn luôn sục sôi trong lòng mỗi người con Lạc cháu Hồng đất Việt nói chung, Nam Bộ nói riêng khi nghe lời hát “mùa thu rồi ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến...” .

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 02/9/1945, thực dân Pháp lại dã tâm thực hiện âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa.

Để bảo vệ thành quả cách mạng của chính quyền non trẻ vừa thành lập, ngày 05/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân đồng bào: “Quốc dân đồng bào! Nhân dân Việt Nam hoan nghênh quân đồng minh kéo vào Việt Nam để tước khí giới quân Nhật nhưng cương quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ lần nữa. Hỡi đồng bào! Hiện một số quân Pháp đã lọt vào nước ta. Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu”! (Báo Cứu Quốc số ra ngày 05/9).

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công các trụ sở của chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta tại Sài Gòn, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Quân, dân Sài Gòn - Gia Định dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ đã anh dũng đánh trả quyết liệt, kìm giữ chân địch để các địa phương có thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến trường kỳ.

Bài hát Nam Bộ kháng chiến ra đời giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang vào thế hừng hực lửa, ác liệt nhất, nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn viết với những lời lẽ bình dị, song rất hào hùng, sục sôi của con người Nam Bộ anh hùng.

Mùa thu rồi, ngày 23 ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến

Rền khắp trời lời hoan hô, dân quân Nam nhịp chân tiến lên trận tiền

Thuốc súng kém, chân đi không mà lòng người giàu lòng vì nước

Nóp với giáo mang ngang vai nhưng thân trai nào kém oai hùng

Cờ thắm tung bay ngang trời, sao vàng xao xuyến khắp nơi bưng biền, một lòng nguyện với tổ tiên…

Trong không khí sôi sục của Cách mạng Tháng Tám, từ ngày 23 đến 28/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Nam Bộ đã vùng lên khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Chỉ 21 ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân Nam Bộ chưa kịp hưởng niềm vui thanh bình, phải tiếp tục cầm súng đứng lên chiến đấu để giữ vững nền độc lập của Tổ quốc vừa giành được, thực hiện lời thề “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(1).

Trước khi Pháp nổ súng quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai, Đảng ta đã tiên lượng trước âm mưu của các thế lực thù địch và có quyết sách phù hợp. Tình hình ngay sau khi nước nhà độc lập hết sức căng thẳng. Ở phía Bắc, 20 vạn quân Tưởng lợi dụng danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân Nhật hòng thôn tính chính quyền cách mạng non trẻ. Ở phía Nam, quân đội Anh cũng dùng chiêu bài đó để hậu thuẫn, trang bị vũ khí cho quân Pháp quay lại Đông Dương. Trước tình thế “lửa cháy hai đầu”, Chính phủ cách mạng phải hết sức khôn khéo trong sách lược đối phó, đó là tạm hòa hoãn với quân Tưởng để tập trung đánh đuổi thực dân Pháp. Trong đêm 22/9, ở bất cứ nơi nào quân Pháp đánh chiếm đều bị quân, dân ta nhất loạt đứng lên chống trả quyết liệt.

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, sáng 23/9/1945, khi một đại đội quân Anh định hạ lá cờ đỏ sao vàng xuống để kéo lá cờ tam tài lên, vì danh dự lá cờ Tổ quốc, chỉ với vũ khí thô sơ nhưng các chiến sĩ cảm tử Tiểu đội bảo vệ Cột cờ Thủ Ngữ của ta kiên quyết ngăn cản dù phải hy sinh đến người cuối cùng. Cảm phục trước khí tiết đó, viên chỉ huy người Anh đã cho đại đội xếp hàng, bồng súng chào hương hồn những người anh hùng của đối phương đã ngã xuống dưới chân cột cờ. Trận chiến đấu bảo vệ lá cờ Tổ quốc - biểu tượng của nền độc lập đã cổ vũ mạnh mẽ cho lực lượng vũ trang ta dũng cảm tổ chức nhiều trận đánh ác liệt.

Tiếp đến, chiều 23/9/1945, cả Sài Gòn đình công, không hợp tác với Pháp. Các công sở, xí nghiệp, hãng buôn đều đóng cửa, chợ không họp, xe ngừng chạy, đêm 23/9, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn đã cắt toàn bộ điện, nước. Trên khắp các đường phố đều dựng các chiến lũy. Tất cả đồ vật như bàn, ghế, giường, tủ, các loại xe và những vật dụng cồng kềnh đều được huy động khuân ra đường dựng lên các chướng ngại vật để cản bước tiến của quân địch.

Ngày 26/9/1945, qua sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Nam Bộ, khẳng định quyết tâm kháng chiến của Trung ương Đảng, Chính phủ và Nhân dân cả nước. Người nhấn mạnh:

Hỡi đồng bào Nam Bộ!

Nước ta vừa tranh quyền độc lập, thì đã gặp nạn ngoại xâm…

Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân.

Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính đáng.

Đáp lại lời kêu gọi của Người, xứng đáng với lòng tin cậy và sự cổ vũ của nhân dân cả nước, nhân dân Nam Bộ vùng dậy dũng cảm đánh trả kẻ địch có trang bị hiện đại, làm thất bại âm mưu của địch, tạo điều kiện để ta củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới. Từ gậy tầm vông, mã tấu cùng các loại vũ khí thô sơ, nhân dân miền Nam đã đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.

79 năm qua, tinh thần Ngày Nam Bộ kháng chiến vẫn hừng hực hào khí cách mạng, luôn rực sáng trong lịch sử của đất nước. Mỗi chúng ta hôm nay luôn nhớ và tái hiện hình ảnh năm xưa càng thêm tự hào về tinh thần bất khuất, khí phách anh hùng của nhân dân Nam Bộ và cả nước; đồng thời, mốc son sáng ngời ngày 23/9 như còn in đậm và giữ nguyên giá trị ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Đó sẽ là động lực to lớn cổ vũ mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tâm nhất trí, năng động, sáng tạo để tiếp tục sáng mãi ngọn lửa Ngày Nam Bộ kháng chiến năm xưa khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng.

ThS Nguyễn Thanh Hoàng

--------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.534.

Chia sẻ bài viết