Tiếng Việt | English

26/07/2019 - 18:22

Khúc tưởng niệm liệt sĩ biển khơi

Những ngày qua, ngoài vùng biển Tư Chính thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc đang “nóng bỏng” bởi 6 con tàu của Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam. Sự có mặt của những “con tàu không mời mà đến” của Bắc Kinh làm chúng ta liên tưởng đến “sự kiện 14/3/1988”. 31 năm trôi qua kể từ ngày 64 chiến sĩ ngã xuống ngoài rạn đá Gạc Ma, mỗi lần “biển Đông dậy sóng” lại nhắc nhớ người dân Việt “phải đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ” bằng mọi giá.

Chiến sĩ Trần Thiên Phụng trong Lễ khánh thành tượng đài “Những người nằm lại phía chân trời” tại Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa

Tràng hoa tri ân mong các anh an nghỉ vĩnh hằng trong lòng biển mẹ

HồI ức Gạc Ma 

Gặp lại sau hơn 2 năm kể từ ngày khánh thành tượng đài “Những người nằm lại phía chân trời” ở bán đảo Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa dịp 27/7/2017, ông Trần Thiên Phụng bồi hồi kể lại những câu chuyện chiến đấu anh dũng và thắm tình đồng đội trong sự kiện Gạc Ma năm ấy. Ông xúc động nói: “Hơn 1/3 thế kỷ trôi qua, thời gian có thể xóa nhòa hoặc làm người ta quên nhiều thứ nhưng đối với sự kiện “Trường Sa 88” thì tôi không bao giờ quên. Trong ký ức tôi - một người tưởng đã chết từ Gạc Ma trở về, không bao giờ quên được những bi thương của đồng đội”.

Ông Phụng kể, đầu tháng 3/1988, Trung Quốc sau khi chiếm giữ trái phép 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa (gồm các đảo: Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi) của Việt Nam, lại tiếp tục dã tâm chiếm các đảo: Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao nhằm kiểm soát cả khu vực cụm đảo Sinh Tồn. Trung Quốc huy động lực lượng của 2 hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa với 9-12 tàu chiến, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc và 1 pôngtông lớn để hỗ trợ.

Khoảng 6 giờ, ngày 14/3/1988, phía Trung Quốc cho xuồng nhỏ áp sát bãi Gạc Ma, lính Trung Quốc lăm le vũ khí tiến vào đảo, yêu cầu quân ta hạ cờ. Trước tình thế nguy cấp, Trung tá Trần Đức Thông ra lệnh anh em bơi vào đảo để hỗ trợ nhóm Thiếu úy Phương giữ cờ. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh và 3 chiến sĩ khác lập tức nhảy khỏi tàu HQ-604 bơi vào đảo Gạc Ma. Lúc đó có 9 người trên đảo. Anh em cầm tay nhau kết thành vòng tròn bất tử. Phía trước đối mặt với quân thù, sau lưng là cờ Tổ quốc. “Lúc đó lính Trung Quốc rất đông. Chúng tôi không có vũ khí gì ngoài cuốc chim công binh và xà beng đào san hô” - ông Phụng nhớ lại.

Ngay sau khi hải quân Trung Quốc nã đạn pháo vào đảo Gạc Ma và tàu 604 khiến tàu chìm, ông và nhiều đồng đội bơi ra khỏi tàu. Ông Phụng kể tiếp: “Tôi bám víu vào một thanh gỗ. Tàu Trung Quốc thả xuồng vây xung quanh. Có đồng đội bám vào mạn tàu để không đuối nước liền bị lính Trung Quốc xỉa lao xuống và dùng móc câu móc vào người dìm chết. Sau đó, chúng tôi bị Trung Quốc bắt. Chúng chĩa súng vào đầu tôi và ra hiệu đầu hàng. Tôi trừng mắt nhìn thẳng vào mắt chúng và quát: “Đất nước chúng tôi không bao giờ dạy người lính đầu hàng trước mũi súng quân thù. Không bao giờ!”. Bọn chúng bắt 9 anh em chúng tôi đưa về tàu rồi đưa về Hải Nam. Lúc ấy, tôi bị thương rất nặng”.
Gần 7 tháng sau kể từ ngày binh nhất Trần Thiên Phụng và 8 chiến sĩ khác bị Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, ngày 01/11/1988, lãnh đạo Trung đoàn 83 Công binh Hải quân gửi giấy báo tử, xác nhận “Binh nhất Trần Thiên Phụng, cấp bậc binh nhất, chức vụ chiến sĩ, đơn vị Trung đoàn 38 Công binh Hải quân mất tích vào ngày 14/3/1988 tại đảo Gạc Ma - Việt Nam”. 

Cầm tờ giấy báo tử chồng trên tay, bà Lê Thị Thiên - vợ ông Phụng, chết lặng. Lúc ấy, đưa tay đặt lên bụng mình, bà nghẹn ngào nói: “Anh Phụng ơi, anh nói sẽ về. Anh đừng đi, em đang mang giọt máu của anh. Chẳng lẽ con chúng ta chưa ra đời đã mồ côi cha”, rồi ngất lịm đi. Hàng xóm nghe tin đến chia sẻ nỗi đau cùng bà, thắp nén nhang lên bàn thờ không di ảnh của ông. Bà Thiên nức nở: “Bây giờ xương cốt anh ở đâu, biết lấy ngày nào để làm giỗ cho anh?”.

Thời gian trôi đi, bà Thiên sống trong niềm đau xót. Cảnh nhà neo đơn thêm phần tang tóc khiến bà như gục ngã. Bất ngờ một hôm, bà Thiên nhận được mảnh giấy gửi về từ Hội Chữ thập đỏ, trong đó có dòng tin “Anh bị Trung Quốc bắt làm tù binh, em và bố mẹ giữ gìn sức khỏe”. Bà mừng rơi nước mắt. Cả nhà nhìn lên bàn thờ không di ảnh và cầu mong ông sớm trở về.

Sau hơn 3 năm kể từ ngày binh nhất Trần Thiên Phụng và 8 chiến sĩ khác bị Trung Quốc bắt, ngày 02/9/1991, Trung Quốc trao trả 9 “tù binh” tại Cửa khẩu Hữu Nghị Quan ở Lạng Sơn. Bà Thiên bắt xe ra tận cửa khẩu đón chồng. Ông bà gặp nhau trong phút giây trùng phùng xúc động.

“Bây giờ tôi khỏe rồi, có ba đứa con, đều đã khôn lớn. Kinh tế gia đình cũng tạm ổn. Những khi trái gió trở trời, vết thương trên đầu và vai lại đau buốt. Bây giờ nghĩ lại ngày ấy, tui cảm thấy rất tự hào” - ông Phụng như nói với 64 đồng đội đang nằm dưới những ngôi mộ gió tại khu Tượng đài Gạc Ma ở bán đảo Cam Ranh.

Tràng hoa tri ân mong các anh an nghỉ vĩnh hằng trong lòng biển mẹ

Chiến sĩ Trần Thiên Phụng trong Lễ khánh thành tượng đài “Những người nằm lại phía chân trời” tại Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa

Tràng hoa biển tri ân liệt sĩ

Trong hải trình đi thăm cán bộ, chiến sĩ Trường Sa, đoàn công tác chúng tôi đến vùng biển, đảo Cô Lin, Gạc Ma làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ. Chẳng ai bảo ai, trong trái tim mỗi người dâng tràn cảm xúc. Chúng tôi nhìn về phía đảo Gạc Ma với niềm xót xa, nghẹn ngào, nhiều người rơm rớm nước mắt.

Giữa biển trời Tổ quốc, khói hương nghi ngút, tiếng nhạc da diết, chúng tôi xếp thành hàng lặng lẽ trên boong tàu. Trong cơn giông cuối chiều, tiếng trưởng đoàn công tác như quyện vào sóng nước. “Đảo Trường Sa là của Việt Nam, là linh hồn Tổ quốc Việt Nam. Nơi đây, bao người con ưu tú của Tổ quốc đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, giành từng tấc đảo và bảo vệ những phiến đá kiến tạo qua hàng nghìn năm lịch sử được cha, ông ta giữ gìn từ lâu đời. Không để bị cướp đảo thân yêu, hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh đã giằng co quyết liệt, cắm cờ Tổ quốc lên đảo để khẳng định cột mốc chủ quyền. Lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân thêm một lần nữa tô thắm máu đào của 64 liệt sĩ. Tiếng nói của Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương sẽ mãi khắc sâu trong tâm khảm của triệu triệu người dân Việt Nam, từ thế hệ này qua thế hệ khác: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Các anh đã gác lại bao ước mơ, hoài bão và dâng hiến tuổi thanh xuân để bảo vệ những cột mốc tiền tiêu. Máu các anh lẫn vào biển xanh, xương của các anh thấm vào lòng biển đảo, tên các anh được thế hệ hôm nay và mai sau đời đời ghi nhớ”.

Tràng hoa tưởng niệm thả xuống lòng biển mẹ là khúc tưởng niệm tháng bảy gửi đến các anh hùng liệt sĩ. Khúc tưởng niệm ấy có cả bi thương lẫn tự hào; niềm đau hòa cùng những giọt nước mắt. Tất cả là nghĩa tri ân và lòng ghi ơn của triệu triệu người dân Việt Nam đối với các liệt sĩ. Cầu mong linh hồn các anh bình yên vĩnh hằng trong lòng biển mẹ.

31 năm trước, 64 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu chống trả lại sự tàn sát của hải quân Trung Quốc trên vùng biển Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao để bảo vệ chủ quyền. Lịch sử sang trang mới, sự kiện đau thương dần lùi vào dĩ vãng nhưng 31 năm trôi qua, nó vẫn còn mang tính thời sự khi mà 64 hài cốt liệt sĩ còn nằm lại lòng biển sâu. Thời gian có dài bao nhiêu, lịch sử có đổi thay thế nào chăng nữa thì trận chiến Gạc Ma vẫn thức tỉnh trái tim người Việt về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc./.

Mai Thắng

Chia sẻ bài viết